Mua bán phụ nữ, trẻ em được xác định là những tội phạm hết sức nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, hình phạt đối với các tội phạm này được quy định rất nghiêm khắc (phạt tù đến 07 năm đối với tội mua bán phụ nữ và phạt tù đến 10 năm đối với tội mua bán trẻ em); phạm tội trong các trường hợp có tình tiết tăng nặng như: có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm, để đưa ra nước ngoài hoặc mua bán trẻ em để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo ... thì hình phạt có thể lên đến 20 năm tù (đối với tội mua bán phụ nữ) và 20 năm tù hoặc tù chung thân (đối với tội mua bán trẻ em). Ngoài việc bị phạt tù, người phạm các tội mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em còn có thể bị phạt tiền bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm và mỗi người phải chịu trách nhiệm hình sự tuỳ theo tính chất và mức độ tham gia của mình vào việc thực hiện tội phạm (các điều 20 và 53 BLHS). Ngoài ra, Điều 48 Bộ luật Hình sự quy định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong đó có tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội và tình tiết phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác.
Bên cạnh đó Bộ luật Hình sự cũng quy định một số tội danh đối với một số hành vi liên quan đến quá trình buôn bán phụ nữ, trẻ em, cụ thể là:
Đối với hành vi liên quan đến mại dâm: tội chứa mại dâm (Điều 254), tội môi giới mại dâm (Điều 255) và tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256). Đây là những tội phạm nghiêm trọng với mức hình phạt có thể đến 5 hoặc 7 năm tù. Phạm tội trong những trường hợp có tình tiết tăng nặng như: có tổ chức, cưỡng bức mại dâm, phạm tội nhiều lần, phạm tội đối với nhiều người, phạm tội đối với trẻ em hoặc người chưa thành niên, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng... thì hình phạt có thể lên đến 15 năm tù (đối với tội mua dâm người chưa thành niên), 20 năm tù (đối với tội môi giới mại dâm) và 20 năm hoặc tù chung thân (đối với tội chứa mại dâm). Ngoài ra, người phạm các tội nói trên còn có thể bị phạt tiền bổ sung đến 10.000.000 đồng (đối với tội môi giới mại dâm và tội mua dâm người chưa thành niên). Riêng đối với tội chứa mại dâm thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền đến 100.000.000 đồng, bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Đặc biệt, Điều 251 Bộ luật Hình sự nghiêm cấm hành vi hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có tức là thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có hoặc sử dụng tiền, tài sản đó vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động kinh tế khác. Điều này cũng được áp dụng để xử lý hành vi hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội buôn bán phụ nữ, trẻ em mà có.
Như vậy, Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định một cách tương đối toàn diện phần lớn các tội phạm thường xảy ra trong quá trình buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Hoàng Xuân