Bốn phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ CNH-HĐH

Thứ tư - 24/07/2013 00:00 687 0
Thứ nhất: Phẩm chất tự trọng Tự trọng là coi trọng và giữ gìn phẩm cách, danh dự của mình. Hiểu một cách đầy đủ, tự trọng chính là có ý thức về giá trị của bản thân mình, tự mình tôn trọng mình, coi trọng danh dự của mình. Theo nghĩa này, tự trọng đồng nghĩa với tự tôn. Đây là một trong những yếu tố nền tảng quan trọng nhất để làm nên giá trị của một con người chân chính, là giá trị đảm bảo cho tất cả các giá trị của nhân cách mỗi con người.

 Biểu hiện của phẩm chất tự trọng có thể khái quát thành mấy nét chính sau đây:

Người có lòng tự trọng trước hết phải là người tôn trọng pháp luật của Nhà nước, tôn trọng và tuân thủ các quy tắc ứng xử của tập thể, cộng đồng. Sự tôn trọng ấy thể hiện qua thái độ tự giác chấp hành mọi quy định của pháp luật, nghiêm túc thực hiện các quy chế, nội quy, hương ước của tập thể, cộng đồng; hoàn toàn không phụ thuộc vào việc có bị giám sát hay không bị giám sát, nhắc nhở hay không bị nhắc nhở. Như vậy, sẽ là người thiếu tự trọng nếu có tư tưởng đối phó trong chấp hành luật pháp, sẵn sàng vi phạm pháp luật, vi phạm những quy định, quy ước chung của tập thể khi có cơ hội (Ví dụ: tham ô, bớt xét của tập thể, vượt đèn đỏ khi không có cảnh sát giao thông, vứt rác bừa bãi nơi công cộng, đi làm thì đến muộn về sớm;…).

Người có lòng tự trọng còn là người luôn tôn trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội. Tự giác tu dưỡng phẩm chất, đạo đức, rèn luyện tác phong, lối sống theo các chuẩn mực đạo đức xã hội; biết phân biệt đúng/sai, phải/trái; răn mình không vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội, chuẩn mực đạo đức gia đình. Chẳng hạn, người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến lấy “tam tòng tứ đức” làm chuẩn mực để tự tu dưỡng đầy đủ “công dung ngôn hạnh”, tự răn mình sống theo đạo lí hiếu thảo với cha mẹ, chung thủy với chồng, toàn tâm toàn ý đến mức hy sinh cả bản thân. Người phụ nữ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ tích cực hưởng ứng phong trào “Ba đảm đang”, tiễn chồng tiễn con ra trận, tay súng tay cày đảm đang công việc gia đình, công việc sản xuất, chiến đấu ở hậu phương, … Xuất phát từ ý thức tôn trọng chuẩn mực đạo đức xã hội, người có lòng tự trọng sẽ sẽ không có những hành động trái chuẩn mực đạo đức xã hội, trái lương tâm, sẽ không sống theo kiểu bất chấp dư luận…(Ví dụ: không trộm cắp, mại dâm, hành động bất nhân bất nghĩa…); sẽ tự biết xấu hổ, biết ăn năn nếu làm những việc trái đạo lý. Trong ứng xử, người tự trọng thường độ lượng với người khác nhưng nghiêm khắc với bản thân; không sống dễ dãi, buông thả; khi có lỗi thì tự giác nhận lỗi và sửa lỗi; biết kiềm chế, không xúc phạm người khác; không để người khác kích động, lôi kéo.

Đặc biệt, người tự trọng phải là người coi trọng danh dự bản thân, có lòng tự tôn dân tộc; là người luôn nhận thức đúng đắn về bản thân và về những người xung quanh, biết được điểm yếu, điểm mạnh của mình, của người; trước tự xử sự với mình, sau xử sự với người xung quanh. Việc coi trọng bản thân thể hiện qua ý thức nỗ lực phấn đấu vươn lên để tự hoàn thiện mình; sống có trách nhiệm với bản thân và với mọi người; cố gắng làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân đối với gia đình, đối với xã hội (Nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ trong gia đình; nghĩa vụ người công dân của một đất nước…). Tự giác hoàn thành tốt những công việc được giao phó; nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều; việc gì làm được thì gắng làm, không phiền lụy đến người khác. Lòng tự trọng và tự tôn còn giúp con người biết việc nên làm/việc không nên làm (Chẳng hạn như nếu có lòng tự trọng thì một bộ phận nữ thanh niên sẽ không sa vào lối sống sa đọa, không lấy chồng ngoại chỉ vì lợi ích vật chất trước mắt, không có hình ảnh các cô dâu Việt bị rao bán trên một số báo Hàn Quốc, Đài Loan; không diễn ra những vụ xem mặt, chọn vợ tập thể đã và đang làm tổn hại nghiêm trọng đến phẩm giá, đạo đức, làm sai lệch hình ảnh tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, làm tổn hại đến lòng tự trọng của mỗi con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam…).

Lòng tự trọng giúp cho mỗi con người ý thức được giá trị của bản thân, và biết cách để bảo vệ danh dự của bản thân. Người trí thức biết tự trọng sẽ không đánh cắp tri thức của người khác làm tri thức của mình; Một học sinh biết tự trọng sẽ không gian dối trong học tập và thi cử; Một công chức nhà nước tự trọng thì biết tự giác hoàn thành nhiệm vụ, không lợi dụng chức vụ để tư túi; Một người phụ nữ biết tự trọng sẽ không vì đồng tiền mà làm ô uế thanh danh của mình. Chính vì ý nghĩa ấy, lòng tự trọng sẽ làm nên nhân cách và thương hiệu của mỗi người, của mỗi công ty, hay của quốc gia. Một doanh nghiệp không có lòng tự trọng, cho ra đời những sản phẩm  của sự vô trách nhiệm sẽ không bao giờ làm nên thương hiệu; và những sản phẩm như thế sẽ không bao giờ tồn tại lâu dài hay có khả năng chinh phục xã hội. Một dân tộc không có lòng tự trọng sẽ không có khả năng hiện thực hoá giấc mơ độc lập, tự do, văn minh và phồn thịnh của mình; thậm chí có thể sẽ dẫn đến mất nước, làm nô lệ.

Thứ hai: Phẩm chất tự tin

Tự tin  là tin vào bản thân mình, sẵn sàng vượt lên trên định kiến giới, dám nghĩ, dám làm, dám tin vào khả năng thành công của mình.

Người tự tin trước hết là người tin tưởng vào năng lực bản thân, tự đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của mình, điểm nào là lợi thế, điểm nào là hạn chế; tức là có sự tự tin đúng mức dựa nên thực tế cũng như năng lực của bản thân. Từ đó, đặt cho mình mục tiêu để phấn đấu vươn lên, vượt mọi hoàn cảnh khó khăn, khắc phục tâm lí tự ti, rụt rè; rèn luyện bản lĩnh, nghị lực để đạt mục tiêu được xác định trong cuộc đời. Chìa khóa để có được sự tự tin chính là lòng tự trọng, sự hiểu biết, ý thức về bản thân, về thế giới.Trong công việc, người tự tin là người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; sẵn sàng nhận nhiệm vụ, không trốn tránh, đùn đẩynhiệm vụ của mình cho người khác; và khi đã nhận thì cố gắng hoàn thành tốt. Trong cuộc sống, người tự tin thường quyết đoán, chủ động, bình tĩnh xử lí mọi tình huống khó khăn. Ở người tự tin còn luôn thể hiện thái độ hợp tác cao; sẵn sàng tôn vinh thành công của người khác; không sợ người khác giỏi hơn mình; đồng thời cũng luôn là người khiên tốn,thắng không kiêu, bại không nản, coi “thất bại là mẹ thành công”, coi khó khăn là môi trường rèn luyện để thử thách năng lực và ý chí của mỗi người. Trong giao tiếp, ứng xử, người tự tin thường tỏ thái độ bình tĩnh, chủ động; nói năng rành mạch, phong thái chững chạc, đường hoàng.

Phẩm chất tự tin thuộc về bản lĩnh của mỗi người, đồng thời cũng không chỉ thể hiện trong ý nghĩ mà còn thể hiện qua thái độ, qua hành động thực tiễn của con người; gắn với khả năng thực, giá trị thực của con người.

Trong xã hội ngày nay, mặc dù công cuộc giải phóng phụ nữ đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng những định kiến giới vẫn còn khá phổ biến. Do vậy, người phụ nữ hiện đại phải biết vượt qua những định kiến của xã hội, chủ động khẳng định vai trò, vị thế, quyền lợi và trách nhiệm của mình trước yêu cầu mới của đất nước; nhận thức về “Sự tiến bộ của phụ nữ gắn liền với sự phát triển của đất nước”. Đồng thời, người phụ nữ luôn phải vươn lên, vượt qua mọi rào cản khó khăn, thử thách; vượt qua tâm lý mặc cảm tự ti; vượt lên chính mình để không ngừng phấn đấu, học tập tiếp thu tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp nhằm hoàn thành tốt công việc và khẳng định vị thế của mình trong xã hội. Thực tế đã chứng minh nhiều phụ nữ với sự nỗ lực vượt bậc, với bản lĩnh kiên cường và ý chí quyết tâm cao đã vượt qua hoàn cảnh, vượt qua số phận để tự khẳng định, vươn lên thoát nghèo, làm giàu và thành đạt.

Quá trình CNH, HĐH đất nước gắn với kinh tế tri thức luôn đòi hỏi người lao động phải quan tâm hàng đầu về phẩm chất trí tuệ. Để đáp ứng được yêu cầu nền sản xuất này, phụ nữ phải có trí tuệ, có trình độ học vấn, kiến thức cao mới có thể tham gia một cách chủ động vào phát triển sản xuất, kinh doanh; góp phần sáng tạo khoa học, công nghệ, ứng dụng nó vào thực tiễn. Bên cạnh đó, người phụ nữ cần năng động, sáng tạo, có phương pháp làm việc khoa học để đạt được năng suất lao động và hiệu quả công việc một cách tốt nhất. Trong những điều kiện mới, cần có cách suy nghĩ, cách làm khác trước; cần vượt qua những cách làm không còn phù hợp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, năng động, sáng tạo không phải là một tố chất bẩm sinh, nó được hình thành trên cơ sở của nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến sự trau dồi về học vấn, kiến thức... Thực tế cho thấy trình độ văn hóa, nghề nghiệp của số đông phụ nữ hiện còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Do vậy, phụ nữ cần quyết tâm nâng cao năng lực bản thân, tranh thủ cơ hội, điều kiện để tự học và tham gia các lớp học. Học tập là chìa khóa để người phụ nữ tự tin mở cánh cửa hội nhập với xã hội, với thế giới. Đối với nữ nông dân, phải có ý thức học hỏi, nắm vững tri thức trong lĩnh vực nông nghiệp để có thể làm chủ những tri thức mới, những kỹ thuật và công nghệ mới, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản phẩm mà mình tạo ra. Đối với nữ công nhân, phải thường xuyên rèn luyện nâng cao tay nghề, làm chủ những dây chuyền công nghệ mới, kỹ thuật hiện đại để có vị trí tốt trong quá trình sản xuất công nghiệp. Đối với lao động nữ trong khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ gắn với công nghệ cao, ngoài việc làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại liên quan trực tiếp đến công việc của mình, thì cần nâng cao kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nghề nghiệp, làm chủ ngoại ngữ. Đối với nữ trí thức, các nhà khoa học nữ trên các lĩnh vực, cần không ngừng tiếp thu tri thức, nâng cao trình độ và năng lực nghiên cứu khoa học, làm chủ được những tri thức khoa học đã được đào tạo để say mê nghiên cứu sáng tạo những giá trị mới, công trình nghiên cứu khoa học mới, vươn lên trở thành những chuyên gia giỏi, những nhà khoa học tài ba trong lĩnh vực của mình.

Phụ nữ cần có ý thức rèn luyện kỹ năng sống, rèn luyện sức khỏe, giữ gìn vẻ đẹp hình thể. Trong xã hội hiện đại, tốc độ vận động của cuộc sống ngày càng được đẩy nhanh, đòi hỏi con người phải tích lũy được nhiều kỹ năng ứng phó, nhất là kỹ năng sống với các phương diện cụ thể: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng học tập, kỹ năng làm việc, kỹ năng chăm sóc nuôi dạy con cái, kỹ năng nội trợ, kỹ năng làm đẹp, kỹ năng quản lý và đồng thời cũng rất cần quan tâm đến kỹ năng làm mẹ, làm vợ, vì đây chính là bí quyết để làm nên hạnh phúc gia đình. Có được các kỹ năng sống, người phụ nữ mới không cảm thấy lúng túng khi đóng vai trò kép: vừa giỏi việc nước vừa đảm việc nhà, làm tốt chức năng nội tướng và nuôi dạy con cái thành đạt. Bên cạnh đó, không nên quên rằng, trong mọi thời đại, sức khỏe và vẻ đẹp luôn là những thành tố quan trọng làm nên giá trị của mỗi con người. Do đó, trong thời đại ngày nay, để làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ trong gia đình, người lao động, làm việc ngoài xã hội, người phụ nữ cần phải có sức khỏe tốt. Trước hết là cần một thể lực tốt để đảm nhiệm công việc, cần một tinh thần luôn sảng khoái để giữ được bầu không khí đầm ấm, tươi vui, thân thiện trong gia đình, nơi làm việc. Sức khỏe tốt còn giúp cho người phụ nữ luôn tự tin, trẻ trung, xinh đẹp, góp phần giữ gìn hạnh phúc của cá nhân, gia đình và xã hội.

Thứ ba: Phẩm chất đảm đang

Đảm đang  là khái niệm chỉ người phụ nữ đảm đang việc nhà; người đàn bà gánh vác giỏi công việc trong gia đình.

Trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước, phụ nữ miền Bắc sôi nổi tham gia phong trào ba đảm đang: đảm đang sản xuất, công tác, thay thế cho nam giới đi chiến đấu; đảm đang gia đình, khuyến khích chồng con yên tâm chiến đấu; đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết. Hình ảnh người phụ nữ tay súng tay cày đã trở thành một biểu tượng cao đẹp cho người phụ nữ thời đại Hồ Chí Minh, góp phần làm nên kì tích trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh bại Đế quốc Mĩ xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất nước.

Biểu hiện rõ nhất của phẩm chất đảm đang ở người phụ nữ chính là khả năng quán xuyến công việc gia đình tốt. Đảm đang không phải là tự mình cáng đáng hết mọi việc, mà quan trọng là cần biết cách sắp xếp, phân công công việc cho các thành viên một cách hợp lí; thu hút được sự tham gia tích cực của các thành viên trong chia sẻ công việc gia đình với mình. Người đảm đang cũng là người cần cù, chăm chỉ, sáng tạo trong lao động, tạo thu nhập ổn định đóng góp vào nguồn thu của gia đình; đồng thời biết cách chi tiêu hợp lý, có kế hoạch, phù hợp điều kiện kinh tế gia đình, thực hành tiết kiệm; bảo đảm điều kiện quan trọng về cơ sở vật chất để gia đình tồn tại và phát triển. Bằng sự khéo léo, người phụ nữ đảm đang còn biết cách tổ chức tốt cuộc sống tinh thần trong gia đình thông qua những bữa cơm, những cuộc sinh hoạt đại gia đình, sự thăm hỏi đối với họ hàng, làng xóm, ông bà , anh em…sao cho tạo sự gắn kết các thành viên trong gia đình; quan tâm chăm sóc, nuôi con khỏe, dạy con ngoan, chia sẻ tâm tư tình cảm với con, hiểu những giai đoạn thay đổi tâm sinh lí của con để khéo léo định hướng cho con phát triển nhân cách; không bao giờ phó mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường, cho xã hội.

Bên cạnh đó, người phụ nữ đảm đang là người biết sắp xếp hài hòa việc gia đình với việc xã hội; phấn đấu giỏi việc nước, đảm việc nhà; làm tốt việc nhà, đồng thời làm tốt việc xã hội. Biết cách tạo quan hệ hỗ trợ giữa việc nhà và việc nước: sắp xếp việc nhà hợp lý để toàn tâm toàn ý cho việc nước (bảo đảm về thời gian, đầu tư trí tuệ, sự ủng hộ của các thành viên trong gia đình); Làm tốt việc nước để có điều kiện hỗ trợ thêm việc nhà (tăng thêm nguồn thu nhập, có thêm kĩ năng sống, tăng cường uy tín với các thành viên trong gia đình…); Sắp xếp thời gian nghỉ ngơi, học tập nâng cao trình độ, chăm sóc bản thân; chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để trở thành một người công dân tốt, một người lao động có chất lượng cao, một người vợ đảm, một người mẹ hiền (Tham gia lao động đem lại thu nhập cho gia đình; chăm lo cho con cái trưởng thành về cả vóc dáng, tâm hồn và tính cách; …). Đồng thời chú ý tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình có thời gian học tập, tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng, xã hội.

Đảm đang luôn là phẩm chất đạo đức truyền thống tốt đẹp, vừa thể hiện đúng thiên chức làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ Việt Nam, vừa khẳng dịnh vị thế của họ trong cộng đồng. Từ xưa đến nay, do những điều kiện tự nhiên, đặc điểm về kinh tế, xã hội, phụ nữ Việt Nam dù muốn hay không cũng luôn là những người có vai trò to lớn trong nền sản xuất xã hội cũng như kinh tế gia đình. Trong truyền thống văn hóa, người Việt rất coi trọng gia đình, đề cao nghĩa tình, sự thủy chung chồng vợ, thờ phụng tổ tiên, biết ơn cha mẹ, chữ hiếu, tôn trọng người già, lễ nghĩa, trật tự kỷ cương… Gia đình lại gắn chặt với dòng họ, xóm làng, xã hội tạo nên cộng đồng bền chặt từ trong gia đình ra ngoài xã hội. Nhờ đó, những đóng góp quan trọng của người phụ nữ đối với gia đình cũng chính là đang đóng góp cho xã hội, góp phần tạo nên địa vị cao của họ trong gia đình và ngoài xã hội. Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, việc nối tiếp truyền thống đảm đang vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại, có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với gia đình và xã hội và đối với chính người phụ nữ. Chính sự đảm đang ấy đã góp phần khẳng định quyền bình đẳng của người phụ nữ, xác nhận địa vị, phẩm giá của người phụ nữ đối với gia đình và xã hội; nâng cao hơn nữa những năng lực, phẩm chất, đạo đức của họ trong thời đại mới. Làm tốt trách nhiệm gia đình cũng là làm tốt trách nhiệm với xã hội, ngược lại làm tốt trách nhiệm với xã hội thì càng có điều kiện thể hiện trách nhiệm với gia đình.

Thứ tư: Trung hậu

Trung hậu  là trung thực và nhân hậu với mọi người, có những tình cảm tốt đẹp và chân thành, trước sau như một trong quan hệ đối xử với mọi người.

Như vậy, phẩm chất trung hậu được hiểu là trung thực, thẳng thắn, nhân ái, giàu lòng thương người, chỉ muốn đem lại những điều tốt lành cho người khác. Biểu hiện của phẩm chất trung hậu theo nghĩa rộng chính là lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân. Biết tôn trọng những thành quả cách mạng mà các thế hệ cha ông đã hy sinh xương máu mới giành lại được, hiểu rõ đạo lí “ăn quả nhớ người trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”. Do đó, người trung hậu không bao giờ phản bội Tổ quốc, không nhẹ dạ nghe theo lời xúi dục của kẻ xấu, không tiếp tay cho kẻ xấu phá hoại thành quả cách mạng. Cũng không bao giờ thay lòng đổi dạ, không là người thất hứa, bội tín, không vô tình vô nghĩa.

Trong quan hệ cộng đồng, biểu hiện của phẩm chất trung hậu chính là sự thủy chung son sắt trong các mối quan hệ gia đình, xã hội như tình bạn, tình yêu, tình đồng nghiệp. Người phụ nữ trung hậu luôn là người thật thà, ngay thẳng, sống nhân ái với mọi người, giàu lòng thương người, mong muốn đem lại những điều tốt lành cho người khác. Yêu thương, sẵn sàng cưu mang, giúp đỡ người khác trên cơ sở đồng cảm; không thờ ơ, bàng quan, vô cảm trước bất hạnh của người khác; không làm việc thiện vì những động cơ xấu; không vì quyền lợi cá nhân mà làm hại người khác. Đó còn là lòng vị tha, sẵn sàng hy sinh bản thân cho gia đình, cho đất nước, cho những người thân của mình mà không tính toán; là sự chân thành trong cách đối xử với mọi người, luôn nhìn nhận khách quan về các sự việc trong cuộc sống; công tâm, khách quan trong đánh giá, đối xử với mọi người; trung thực, ngay thẳng, không tham lam, vụ lợi; luôn tôn trọng và bảo vệ chân lí, bảo vệ lẽ phải. Thẳng thắn, cương trực, có chính kiến để bảo vệ lẽ phải, đấu tranh chống cái xấu, cái ác.

Do vậy, trung hậu luôn là một phẩm chất đạo đức thể hiện cách sống đẹp của người Việt Nam nói chung và người phụ nữ nói riêng. Trong suốt tiến trình lịch sử đấu tranh của dân tộc, lòng trung hậu đã trở thành nền tảng cho những phẩm chất tinh thần phong phú, đặc sắc, những khả năng và vai trò thực tế to lớn của phụ nữ Việt Nam. Đồng thời làm nên vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, giàu nữ tính, tạo nên bản lĩnh riêng cho mỗi người phụ nữ, trí tuệ được nâng cao, tỏa ra từ tấm lòng nhân hậu, khoan dung.

Đức tính nhân hậu là giá trị truyền thống của phụ nữ Việt Nam được hình thành và khẳng định trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc. Truyền thống ấy được hun đúc, bồi đắp nên qua những thăng trầm của lịch sử. Trên cơ sở đó, người phụ nữ hiện đại đã kế thừa và phát huy giá trị truyền thống cho phù hợp với công cuộc đổi mới đất nước hôm nay, xứng đáng với lời ngợi khen ‘‘Trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng’’. Như vậy, những người phụ nữ Việt Nam hiện đại mang trong mình truyền thống được đúc kết qua lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước; tự giác phát huy truyền thống đó trong hoàn cảnh và điều kiện mới, trên cơ sở vừa mang phẩm chất chung cho con người, lại vừa mang đặc trưng giới.

Nhân hậu là phẩm chất cao đẹp, tôn lên vẻ đẹp quý báu của phụ nữ Việt Nam. Lòng nhân hậu của phụ nữ Việt Nam đã góp phần vào chiến thắng của dân tộc trước đây. Đến nay, những phẩm chất ấy vẫn tỏa sáng, giúp người phụ nữ vẹn tròn công tác xã hội, công việc gia đình, làm tròn thiên chức của người vợ, người mẹ, đồng thời hoàn thành nghĩa vụ người công dân trong xã hội, xứng đáng với danh hiệu Giỏi việc nước, đảm việc nhà. Những phẩm chất ấy có ý nghĩa thiết thực với mọi thời đại, đặc biệt là trong thời kỳ CNH, HĐH hiện nay. Chính điều đó ngày càng khẳng định vị thế của người phụ nữ trong xã hội hiện đại.

Tóm lại: Phụ nữ Việt Nam vốn có truyền thống phẩm chất tốt đẹp. Ở bất cứ thời kì nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào, những phẩm chất đạo đức ấy luôn tỏa sáng, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy hơn nữa những phẩm chất đạo đức truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là 4 phẩm chất tự trọng, tự tin, đảm đang, trung hậu nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kì CNH, HĐH đất nước, mỗi người phụ nữ càng phải luôn luôn cố gắng phấn đấu, học tập để nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kĩ năng sống, tu dưỡng rèn luyện không ngừng, xứng đáng là người “giữ ngọn lửa ấm” trong mỗi gia đình, đồng thời góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Chính sự kết hợp hài hoà những phẩm chất tinh hoa truyền thống và những tính cách hiện đại, văn minh sẽ tạo nên giá trị và vẻ đẹp đích thực của người PNVN.

 

                                                                                                                Kim Hà

 

(theo tài liệu tuyên truyền giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ VN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước)

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây