Tại hội nghị, đồng chí Đặng Hoa Nam - Cục trưởng Cục trẻ em thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã giới thiệu một số nội dung cơ bản của Luật trẻ em.
Đồng chí Đặng Hoa Nam trình bày các nội dung mới của Luật trẻ em tại hội nghị.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được ban hành lần đầu năm 1991, sau đó được sửa đổi, bổ sung năm 2004. Sau hơn 10 năm thực hiện Luật, những thay đổi về tình hình trong nước và quốc tế cho thấy chúng ta cần nghiên cứu, sửa đổi Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Từ trước đến nay, Việt Nam luôn có quan điểm, chính sách nhất quán về việc thực hiện các quyền trẻ em. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia có cam kết chính trị mạnh mẽ và các biện pháp tích cực về xây dựng pháp luật, chính sách, chương trình quốc gia để thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước ta có nhiều thay đổi, có những vấn đề chính liên quan đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cần được nghiên cứu, sửa đổi Trên cơ sở đánh giá những hạn chế nêu trên, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã xây dựng Luật với các quan điểm chính sau đây:
1. Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện quyền trẻ em trong tình hình mới.
2. Ghi nhận đầy đủ, toàn diện các quyền trẻ em; thể chế hóa Điều 37 Hiến pháp năm 2013 về trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Nhà nước, gia đình và xã hội.
3. Kế thừa, phát triển những quy định còn phù hợp của Luật năm 2004; bổ sung các quy định mới để giải quyết những vấn đề vướng mắc của thực tiễn trong công tác bảo vệ trẻ em.
4. Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
5. Bảo đảm hội nhập quốc tế, áp dụng cách tiếp cận dựa trên quyền con người, quyền trẻ em, hài hòa các quyền trẻ em và nguyên tắc trong Công ước về quyền trẻ em.
Luật Trẻ em năm 2016 có 7 chương với 106 điều, bao gồm: Chương I Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 11); Chương II Quyền và bổn phận của trẻ em (từ Điều 12 đến Điều 41), Chương III Chăm sóc và giáo dục trẻ em (từ Điều 42 đến Điều 46); Chương IV Bảo vệ trẻ em (từ Điều 47 đến Điều 73); Chương V Trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em (từ Điều 74 đến Điều 78); Chương VI Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em (từ Điều 79 đến Điều 102); Chương VII Điều khoản thi hành (từ Điều 103 đến Điều 106).
Luật trẻ em năm 2016 có những điểm mới cơ bản như sau:
Chương I – Những quy định chung, Chương này gồm 11 điều, quy định về khái niệm trẻ em, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và bổn phận trẻ em, các hành vi bị nghiêm cấm, nguồn lực bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em, nội dung quản lý nhà nước về thực hiện các quyền trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và quy định về Tháng hành động vì trẻ em.
So với Luật năm 2004, Chương này quy định một số nội dung mới sau đây:
11 khái niệm được giải thích rõ trong Luật trẻ em gồm bảo vệ trẻ em; phát triển toàn diện của trẻ em; chăm sóc thay thế; người chăm sóc trẻ em; xâm hại trẻ em; bạo lực trẻ em; bóc lột trẻ em; xâm hại tình dục trẻ em; bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em.
Ngoài các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã được nêu trong Luật năm 2004, Luật trẻ em quy định thêm các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; trẻ em bị bóc lột; trẻ em bị mua bán; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha, mẹ hoặc không có người chăm sóc.
Luật trẻ em quy định rõ việc ưu tiên nguồn lực để thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em, bao gồm cả nguồn tài chính và nguồn nhân lực.
Việc lồng ghép vấn đề trẻ em khi xây dựng pháp luật, chính sách được quy định thành một nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em, đồng thời cụ thể hóa thành trách nhiệm của các cơ quan có liên quan thuộc Quốc hội, Chính phủ.
Trách nhiệm phối hợp trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em cũng được quy định tại Điều 9 và cụ thể tại nội dung Chương VI Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em.
Các hành vi bị nghiêm cấm được quy định cụ thể và bổ sung các hành vi như: tước đoạt quyền sống của trẻ em; tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn; cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình; công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em; không thực hiện trách nhiệm hỗ trợ trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm.
Chương II –Quyền và bổn phận của trẻ em, Chương này gồm 30 điều, quy định các quyền và bổn phận của trẻ em. Chương này quy định trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Luật trẻ em quy định 25 nhóm quyền của trẻ em với một số quyền được bổ sung hoặc cụ thể hơn như: quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bí mật đời sống riêng tư; quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, không bị bóc lột lao động, không bị bạo lực, không bị mua, bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang; quyền được đảm bảo an sinh xã hội; quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn.
Kế thừa Luật năm 2004, các bổn phận của trẻ em được quy định cụ thể trong Luật trẻ em phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân của Hiến pháp năm 2013, Năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng và phù hợp với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng con người Việt Nam trong bối cảnh mới. Trẻ em có bổn phận đối với gia đình, nhà trường, cộng đồng, đất nước và chính bản thân các em.
Chương III – Chăm sóc và giáo dục trẻ em, Chương này gồm 05 điều, quy quy định các chính sách cơ bản của Nhà nước để bảo đảm trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo đảm điều kiện vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch và thông tin, truyền thông cho trẻ em. Đây là căn cứ quan trọng để Nhà nước ban hành các chính sách cụ thể thực hiện đầy đủ các quyền trẻ em phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề có liên quan đến trẻ em phát sinh trong thực tế.
Chương IV- Bảo vệ trẻ em, Chương này gồm 27 điều, quy định 04 mục: cấp độ bảo vệ trẻ em và trách nhiệm thực hiện; cơ sở cung cấp dịch vụ trẻ em; chăm sóc thay thế và các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.
Chương này quy định cụ thể các yêu cầu bảo vệ trẻ em; các cấp độ bảo vệ trẻ em; trách nhiệm cung cấp, xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.
Các biện pháp bảo vệ trẻ em được quy định cụ thể từ phòng ngừa, hỗ trợ đến can thiệp cùng với trách nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân để bảo đảm trẻ em được an toàn, được hỗ trợ và can thiệp kịp thời khi có nguy cơ hoặc đang bị xâm hại. Trách nhiệm lập và thực hiện kế hoạch hỗ trợ, can thiệp đối với từng trường hợp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi được quy định tại Điều 52 và được giao cho Chính phủ quy định chi tiết.
Luật quy định cụ thể về các loại hình, điều kiện hoạt động, thẩm quyền thành lập, cấp đăng ký, đình chỉ, chấm dứt hoạt động đối với cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Luật quy định áp dụng các hình thức chăm sóc thay thế đối với trẻ em nhằm đảm bảo trẻ em được sống trong môi trường gia đình và được chăm sóc thay thế khi bị mất môi trường gia đình hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ đẻ để vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Về bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính, Luật trẻ em quy định mang tính hệ thống hóa các nguyên tắc, biện pháp áp dụng đối với người chưa thành niên trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính được quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành đồng thời bổ sung các nguyên tắc được quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các điều ước quốc tế về tư pháp đối với trẻ em mà Việt Nam là thành viên.
Chương V – Trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em, Chương này gồm 5 điều, quy định các vấn đề, phạm vi, hình thức và các biện pháp để bảo đảm trẻ em được tham gia vào các vấn về trẻ em trong quá trình xây dựng, triển khai chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chương trình, hoạt động của các cơ quan, tổ chức; bảo đảm sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề có liên quan đến trẻ em trong gia đình, nhà trường, cơ sở giáo dục khác được quy định cụ thể.
Để việc giám sát thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em khả thi và hiệu quả, Luật trẻ em quy định rõ nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em là Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Chương VI: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện các quyền trẻ em, Chương này gồm 24 điều chia làm 2 mục, quy định rõ trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, bao gồm: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục.
Do việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương, Luật trẻ em quy định về Tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, điều hòa giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; phối hợp giữa Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; phối hợp giữa các địa phương trong việc giải quyết các vấn đề về trẻ em, thực hiện quyền trẻ em.
Chương VII gồm các quy định quy định về hiệu lực thi hành Luật, điều khoản chuyển tiếp và xử lý vi phạm.
HP
(tổng hợp)