Thứ nhất: yêu nước, anh hùng, bất khuất
Lòng yêu nước và phẩm chất anh hùng bất khuất của phụ nữ Việt Nam thể hiện qua 2 phương diện chính: kiên cường đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và hăng hái góp sức mở mang bờ cõi, xây dựng đất nước. Thời Bắc thuộc và thời phong kiến: hình ảnh nổi bật về người phụ nữ Việt Nam là hình ảnh người chiến sĩ yêu nước, bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm với tinh thần “ giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Đó là hình ảnh Hai Bà Trưng và các nữ tướng như: Bà Triệu, Bùi Thị Xuân, vị nữ tướng tài ba trong cuộc khởi nghĩa Tây sơn của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ... Đó còn là những người phụ nữ dũng cảm, tài trí vì sự sống còn của dân tộc đã vượt lên lễ giáo phong kiến, dám gánh vác trọng trách lớn lao của sơn hà xã tắc trong lúc nguy nan nhất như: Thái hậu Dương Văn Nga, Nguyên phi Ỷ Lan…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: phụ nữ Việt Nam nối tiếp truyền thống yêu nước, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc riêng tư để tham gia đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đó là chị Nguyễn Thị Minh Khai, chị Võ Thị Sáu; là đội trưởng nữ du kích Hoàng Ngân gan dạ; là nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi; là “ chị Chiên anh dũng lại tài, tay không đánh giặc quan hai Pháp hàng”; là vị phó Tổng tư lệnh quân giải phóng miền Nam- nữ tướng Nguyễn Thị Định; là người mẹ cầm súng Nguyễn Thị Út; là mẹ Nguyễn Thị Suốt nhiều năm lái đò trên bến sông Nhật Lệ đưa những đoàn quân ra hỏa tuyến; là người con gái Việt Nam Trần Thị Lý; là các nữ anh hùng Tạ Thị Kiều, Lê Thị Hồng Gấm, Ngô Thị Tuyển…Bên cạnh những anh hùng dũng cảm trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm phải kể đến những anh hùng vô danh như: đội quân tóc dài trùng điệp ở miền Nam; chị em nữ thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến miền Bắc với tinh thần “ Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm" ngày đêm bám trụ dưới bom rơi đạn nổ, sửa đường thông xe; là những phụ nữ ba đảm đang “ chắc tay súng, vững tay cày”, vừa chiến đấu vừa sản xuất dưới mưa bom bão đạn…
Thứ hai: Đảm đang, cần cù, chịu thương chịu khó
Nói đến người phụ nữ Việt Nam thì không thể không nói đến đức tính chịu thương chịu khó, dù trong mọi hoàn cảnh nào người phụ nữ Việt Nam cũng luôn gánh vác trọng trách đối với gia đình và xã hội.
Đối với gia đình: người phụ nữ có thể được xem là người gánh vác mọi công việc trong gia đình từ việc lo dạy con cái, lo cho chồng và công việc gia đình. Đối với con, người phụ nữ vừa “ mang nặng đẻ đau” vừa là người thầy đầu tiên dạy dỗ con cái, truyền cho con tình yêu thương và nghị lực để con vững bước vào đời. Đối với chồng, người phụ nữ là người bạn đời, chia sẽ những buồn vui hạnh phúc trong cuộc sống, đóng góp trong sự thành đạt của chồng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, … người phụ nữ còn được xem là nội tướng, vừa tham gia sản xuất phát triển kinh tế gia đình, vừa là cầu nối giữa các thế hệ, làm cân bằng tình cảm trong các mối quan hệ gia đình họ tộc, tạo nên tổ ấm gia đình.
Trong lao động sản xuất: người phụ nữ đảm nhiệm công việc trồng trọt, chăn nuôi. Với sự cần cù, tần tảo, chịu thương, chịu khó nên sự đóng góp của người phụ nữ Việt Nam trong lao động sản xuất không thua kém gì nam giới. Trong sản xuất và kinh doanh, người phụ nữ luôn tần tảo sớm hôm để thực việc trao đổi mua bán, tham gia tạo nguồn thu nhập cho gia đình như nhà thơ Tú Xương đã từng ca ngợi bà vợ “ quanh năm buôn bán ở mom sông, nuôi đủ năm con với một chồng”.
Đối với công việc xã hội: Ngay trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ nhưng vẫn xuất hiện người phụ nữ không chỉ giỏi việc nhà mà còn đảm đang gánh vác công việc giang sơn như Nguyên phi Ỷ Lan thời Lý, thay chồng giúp việc nội trị để nhà vua yên tâm cầm quân nơi chiến trận, lòng dân cảm hóa hòa hợp, được dân gọi là Quan âm. Hay như trường hơp bà Bích Châu- Chế Thắng phu nhân, cung phi của vua Trần Dụ Tông bao lần tấu trình giải pháp mong góp phần làm cho quốc thái dân an.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, phẩm chất đảm đang của người phụ nữ đã trở thành mốc son chói lọi với phong trào yêu nước rộng lớn “ ba đảm đang”: Đảm đang sản xuất, công tác, thay thế cho nam giới đi chiến đấu; đảm đang gia đình, khuyến khích chồng con yên tâm chiến đấu; đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến khi cần thiết.
Thứ ba: Nhân ái, nghĩa tình
Phẩm chất nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam trước nhất thể hiện qua tình cảm yêu thương, vị tha, độ lượng đối với những người thân trong gia đình như bố mẹ, chồng con, anh em; qua lối sống tình nghĩa, quyên góp, cứu trợ, ủng hộ đồng bào vùng bị thiên tai lũ lụt, mất mùa, thể hiện tinh thần hi sinh, đồng cam cộng khổ, thực hiện tốt truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn”, “ lá lành đùm lá rách”, “ thương người như thể thương thân”; coi trọng tình làng nghĩa xóm, luôn chia ngọt sẻ bùi cùng mọi người. Với bản tính đôn hậu, hiền lành, nhường nhịn, người phụ nữ thường là người hòa giải hiệu quả cho những xích mích bất hòa trong các mối quan hệ ở gia đình, họ tộc, làng xóm, cộng đồng…
Thứ tư: Thủy chung
Trong lịch sử hơn một nghìn năm giữ nước, người đàn ông ra trận để lại gánh nặng gia đình lên vai người vợ. Người phụ nữ ngoài việc can đảm vượt mọi khó khăn gánh vác việc nhà còn chung thủy chờ chồng ngày trở về. Sự trung trinh, chờ đợi của những người phụ nữ nơi hậu phương chính là nguồn động lực to lớn giúp người ra trận dũng cảm chiến đấu và chiến thắng. Trong quan hệ với bạn bè, đồng chí, người phụ nữ cũng luôn thủy chung son sắt sống có trước có sau trọn tình vẹn nghĩa.
Đối với Đảng, Tổ quốc, người phụ nữ Việt Nam cũng là những người trung thành vô hạn. Thời kỳ hoạt động bí mật nhiều nữ chiến sĩ cách mạng dù bị giặc giam cầm, tù đày, tra tấn chết đi sống lại nhưng vẫn một lòng trung kiên với cách mạng. Ở miền Nam, trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, chị em phụ nữ vẫn một lòng hướng về cách mạng. Những tấm gương sáng chói của họ đã làm rạng rỡ truyền thống trung hậu của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Thứ năm: Đức hi sinh
Người phụ nữ Việt Nam là người phụ nữ giàu đức hi sinh, hi sinh cho gia đình, hi sinh vì bạn bè, đồng chí và hi sinh cho đất nước. Họ là những người luôn quên bản thân mình để dành mọi sự tốt lành cho chồng, con, cha mẹ và những người thân của mình; không nghĩ đến thân mình mà sẵn sàng hi sinh vì việc lớn; không tiếc sức người sức của để đóng góp cho đất nước, quê hương trong các cuộc kháng chiến cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Trong quan hệ gia đình, với đức hi sinh, người phụ nữ thường nhường nhịn, chia sẽ, suốt đời vì chồng vì con. Là chủ thể quan trọng trong việc tổ chức cuộc sống gia đình, đôi khi người phụ nữ chấp nhận sự thua thiệt để co sự hòa thuận cho mái ấm gia đình của mình. Còn đối với xã hội, người phụ nữ sẵn sàng gánh vác công việc chung, hi sinh quyền lợi cá nhân vì đất nước. Trong lịch sử Hai Bà Trưng đã nêu cao tấm gương của những liệt nữ sẵn sàng hi sinh thân mình để đền nợ nước, trả thù nhà; Thái hậu Dương Vân Nga dám hi sinh quyền lợi của dòng họ nhà chồng vì an nguy của xã tắc;…Trong thế kỷ XX, có biết bao nữ chiến sĩ kiên trung đã gác bỏ tình riêng, hi sinh hạnh phúc cá nhân để một lòng theo Đảng, theo cách mạng, Nhiều chị đã hi sinh oanh liệt giữa tuổi thanh xuân như: Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, 10 cô gái Lam Hạ- Hà Nam, 11 cô gái Truông Bồn- Nghệ An, 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc- Hà Tỉnh;…..
Tóm lại, năm phẩm chất nêu trên là năm phẩm chất tốt đẹp được thể hiện rõ nhất và không thể thiếu của người phụ nữ Việt Nam.
Kim Hà
(theo tài liệu tuyên truyền giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ VN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước)