Khu đất mà bà Thảnh đang khởi kiện yêu cầu các hộ dân chiếm của ông Be trước đây bồi thường công khai phá đất. |
Ông Lê Văn Thương (con rể bà Thảnh), người được bà Thảnh uỷ quyền đi khởi kiện cho biết, vào khoảng năm 1990, ông Nguyễn Văn Be (SN 1931) có khai phá được một số đất tại khu vực ngã ba Vạc Sa, xã Tân Hà, huyện Tân Châu. Ông Be canh tác đến năm 1996 thì bị bệnh nên về nhà ở xã Thanh Điền dưỡng bệnh, trong thời gian này phần đất của ông Be bị một số người lấn chiếm cất nhà ở. Ông Be làm đơn khiếu nại, ngày 6.12.1996, Phòng Địa chính huyện Tân Châu và UBND xã Tân Hà có mời ông Be và 14 hộ dân lấn chiếm đất của ông đến giải quyết. Tại biên bản giải quyết, các hộ dân lấn chiếm đồng ý trả cho ông Be tiền công khai phá với giá mỗi mét ngang là 2,5 phân vàng, ông Be cũng đồng ý. Về thời gian trả tiền, các hộ thống nhất đến ngày 30.1.1997 phải trả cho ông Be 50% và số tiền 50% còn lại đến ngày 30.3.1997 thì trả hết.
Thế nhưng sau đó chỉ có 8 hộ dân thực hiện trả cho ông Be theo biên bản làm việc. Ông Be tiếp tục khiếu nại nên vào ngày 15.3.2002, UBND xã đưa vụ việc ra hoà giải. Ông Nguyễn Văn Lý khi đó là Trưởng ấp Tân Cường đã lập danh sách các hộ nộp tiền trả cho ông Be, trong đó có hộ chỉ đóng 200.000 đồng, có hộ đóng đủ 400.000 đồng. Vì không nhận đủ tiền theo kết quả hoà giải nên ông Be vẫn tiếp tục khiếu nại. Mặc dù các cơ quan chức năng có nhiều văn bản chỉ đạo cho UBND xã Tân Hà, UBND huyện Tân Châu giải quyết dứt điểm vụ việc của ông Be, nhưng đến khi ông Be qua đời vào năm 2008 thì vụ khiếu nại vẫn chưa giải quyết dứt điểm. Lúc này bà Dương Thị Thảnh tiếp tục đi khiếu nại.
Ngày 9.5.2014, UBND xã Tân Hà đã đưa vụ việc ra hoà giải. Có tổng cộng 13 hộ dân nằm trong danh sách khởi kiện của bà Thảnh. Tại buổi hoà giải, ông Lê Văn Thương (đại diện uỷ quyền của bà Thảnh) đồng ý có 3 hộ dân trước đây đã trả đủ tiền công khai phá đất cho ông Be. Còn các hộ dân còn lại, ông Thương đề nghị mỗi hộ phải bồi thường 8.000.000 đồng/m ngang đất. Một trong những hộ dân bị kiện cho rằng: “Trong cuộc họp năm 2002, chúng tôi đã đồng ý là trả 400.000 đồng tiền công khai phá đất. Trong đó đã đưa trước 200.000 đồng, còn 200.000 đồng khi nào ra sổ đỏ sẽ trả tiếp. Tới nay chưa có sổ đỏ nên chúng tôi không bồi thường tiếp được. Nếu ông Thương muốn giải quyết tiếp thì phải đưa ra biên bản hoà giải năm 2002 để làm bằng chứng”.
Theo UBND xã, đơn khởi kiện ông Thương cũng dựa trên biên bản hoà giải năm 2002 nhưng ông không cung cấp biên bản hoà giải này để yêu cầu các hộ dân bồi thường. Sau đó gia đình bà Thảnh khởi kiện ra Toà án huyện, Toà cũng đòi phải bổ sung biên bản giải quyết đất đai ngày 6.12.1996 (bản gốc hoặc bản sao có chứng thực của cơ quan thẩm quyền).
Tuy nhiên, khi liên hệ với UBND xã Tân Hà để xin bản sao biên bản thì gia đình bà Thảnh được biết xã không có lưu.
Bà Nguyễn Thị Huyền- PCT.UBND xã Tân Hà cho biết, trước đây do công tác lưu trữ hồ sơ của xã không được chặt chẽ và trải qua nhiều đời cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn nên biên bản giải quyết năm 1996 của Phòng Địa chính huyện và UBND xã về vụ việc giữa ông Be và các hộ dân đã bị thất lạc. Do đó UBND xã không thể sao lục biên bản để chứng thực theo đơn yêu cầu của bà Thảnh. Ngoài ra, về biên bản hoà giải năm 2002, bà Huyền cho rằng người lập danh sách đóng tiền là ông Nguyễn Văn Lý- khi đó là trưởng ấp Tân Cường nên có thể vụ việc hoà giải vào năm 2002 là do ấp tổ chức, xã không lưu hồ sơ. Do vậy việc yêu cầu tìm kiếm hồ sơ của bà Thảnh, dù UBND xã rất muốn giúp bà nhưng… đành chịu!
Việc TAND huyện Tân Châu ra thông báo trả lại đơn khởi kiện của bà Dương Thị Thảnh do bà không bổ sung đủ chứng cứ tài liệu theo yêu cầu của toà án- trong đó có biên bản giải quyết đất đai là đúng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, nhiều người biết sự việc thì “đồng cảm” với gia đình bà Thảnh, bởi việc bà không bổ sung đủ hồ sơ không phải hoàn toàn do lỗi của bà mà do thiếu sót của UBND xã trong việc lưu trữ hồ sơ!
Theo BTNO