Tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024

Thứ hai - 25/11/2024 08:39 207 0
Ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, địa phương tập trung triển khai nhiệm vụ, giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước, phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất kế hoạch năm 2024

1. Về kinh tế

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP - theo giá so sánh 2010) ước đạt 64.500 tỷ đồng, tăng 7,5% so với cùng kỳ (CK) (KH 2024: tăng 7% trở lên). Tỷ trọng nông - lâm - thủy sản; công nghiệp - xây dựng; dịch vụ (chưa tính thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm) trong GRDP theo giá hiện hành ước đạt 18,9% - 45,0% - 31,4% (KH 2024: 18 - 19%; 45 - 46%; 31 - 32%). GRDP bình quân đầu người ước đạt trên 4.250 USD (KH 2024: 4.250 USD). Hiện nay, Tổng Cục thống kê chưa công bố số liệu GRDP của tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ cập nhật khi có thông tin chính thức.

- Nông nghiệp

Ngành nông nghiệp tiếp tục thực hiện cơ cấu lại theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững'. Sản xuất nông nghiệp ổn định, các kế hoạch sản xuất mùa vụ, khuyến nông, chuyển đổi cơ cấu cây trồng được xây dựng và ban hành kịp thời. Cơ cấu cây trồng có sự chuyển biến rõ nét theo hướng tập trung, từng bước hình thành một số vùng sản xuất chuyên canh gắn với thị trường. Diện tích cây trồng nhiễm sâu bệnh giảm, chủ yếu ở mức nhiễm nhẹ, không ảnh hưởng sinh trưởng cây trồng, chất lượng nông sản. Tổng diện tích gieo trồng ước đạt 259.948 ha, tăng 0,2% so với CK. Diện tích chuyển đổi ước đạt 1.500 ha, bằng 93% so với CK. Giá trị sản phẩm bình quân thu được trên 01 ha đất trồng trọt ước đạt 112 triệu đồng, tăng 03 triệu đồng so với năm 2023 (KH 2024: 112 triệu đồng).

Chăn nuôi được đầu tư phát triển đàn và sản lượng, thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, không phát sinh dịch bệnh nguy hiểm trên gia súc, gia cầm. Xu hướng chuyển dịch từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại tập trung, chuỗi giá trị, đảm bảo an toàn sinh học với 468 trang trại chăn nuôi gia súc và 120 trang trại chăn nuôi gia cầm.

Đã thu hút đầu tư phát triển 05 dự án sản xuất Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo Đề án vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh Tây Ninh và huyện Tân Châu.

Diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 546 ha, bằng 99,6% so với CK; sản lượng ước đạt 15.443 tấn, bằng 99,5% so với CK. Giá trị sản phẩm bình quân thu được trên 01 ha đất nuôi trồng thủy sản ước đạt 879 triệu đồng/năm.

Thực hiện trồng mới 707,8 ha rừng, chăm sóc 955,6 ha rừng trồng phòng hộ và rừng đặc dụng (đạt 100% so với KH). Công tác kiểm tra phòng cháy, chữa cháy rừng và chống phá rừng được phát hiện và có biện pháp khắc phục kịp thời. Trong năm, đã xảy ra 10 vụ cháy rừng với diện tích 16,1 ha (tăng 07 vụ, diện tích tăng 13,1 ha so với CK), mức độ thiệt hại thảm thực vật dưới tán rừng, cây rừng héo lá có khả năng phục hồi.

Quản lý, vận hành và khai thác hiệu quả các công trình thuỷ lợi trên địa bàn tỉnh, đảm bảo công tác cấp nước tưới phục vụ sản xuất. Thường xuyên thông tin về tình hình và dự báo thiên tai có nguy cơ xảy ra trên địa bàn tỉnh. Đã xảy ra 21 vụ thiên tai do mưa lớn, lốc, sét (giảm 38 vụ so với CK), gây thiệt hại 86 căn nhà và 152 ha cây trồng. Tổng giá trị thiệt hại khoảng 1,2 tỷ đồng.

Tình hình đầu tư và chế biến: Diện tích mía được đầu tư và bao tiêu niên vụ 2023 – 2024 là 16.864 ha, lượng mía đưa vào sản xuất đạt 1.184.595 tấn (tăng 32,7% so với CK). Ước khối lượng củ mì đưa vào chế biến khoảng 4.050.226 tấn (tăng 2% so với CK).

Hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị xét công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới theo hướng dẫn đối với Thị xã Trảng Bàng và Thành phố Tây Ninh. Ước đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 68/71 xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM), chiếm tỷ lệ 95,8% (đạt 100% KH); trong đó: 26 xã đạt chuẩn nâng cao, 04 xã đạt chuẩn kiểu mẫu và 04 đơn vị cấp huyện hoàn thành nhiệm vụ NTM.

Tổ chức đánh giá, công nhận 06 sản phẩm OCOP 4 sao. Lũy kế đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có khoảng 125 sản phẩm OCOP được công nhận từ 3 sao trở lên, trong đó: có 31 sản phẩm được công nhận 4 sao.

- Công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 14,2% (KH 2024: tăng 15%), tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GRDP đạt 37,1% (KH 2024: 36%); trong đó: nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,4%; nhóm ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 7,3%; nhóm ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,6%; nhóm ngành khai khoáng giảm 2,9%. Hầu hết, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng sản lượng, trong đó, một số sản phẩm có mức tăng cao, cụ thể: đường các loại (+18,1%); điện thương phẩm (+13,5%); vỏ, ruột xe các loại (+12,3%); Clanke Poolan (+10,1%); quần áo các loại (+9,5%),... riêng sản lượng xi măng giảm (- 2,1%).

Ban hành và triển khai Đề án phát triển Khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050, trong đó, từng khu công nghiệp (KCN) được định hướng phát triển, ưu tiên thu hút các dự án có quy mô lớn, các ngành nghề giá trị gia tăng cao, tăng hiệu suất sử dụng đất, giảm thâm dụng lao động phù hợp xu hướng hình thành các “cụm ngành”, phát triển xanh, tuần hoàn, bền tục hồ vững. Triển khai giai đoạn 3 Khu Công nghiệp Phước Đông và thực hiện thủ sơ pháp lý để triển khai các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp Hiệp Thạnh - giai đoạn 1, dự án đầu tư xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp Tân Phú và cụm công nghiệp Tân Hội 2. Phê duyệt kinh phí 09 đề án khuyến công địa phương, hỗ trợ các cơ sở công nghiệp nông thôn.

Các KCN, Khu Kinh tế Cửa khẩu cấp mới cho 28 dự án (03 dự án trong nước với vốn đăng ký 2.385 tỷ đồng và 25 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư 294, triệu USD); 19 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn tăng 285,9 triệu USD; 02 lượt góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp 0,2 triệu USD. Lũy kế, có 398 dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế (308 dự án nước ngoài và 100 dự án trong nước) với vốn đăng ký 10.568 triệu USD. Diện tích đã cho thuê tại các khu công nghiệp là 1.715,7/2.549,5 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy 67,3%.

Tại 05 cụm công nghiệp đang hoạt động đã thu hút được 20 dự án đầu tư thứ cấp với tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật của các cụm công nghiệp là 137 tỷ đồng; tổng diện tích các cụm công nghiệp đi vào hoạt động là 211,63 ha; diện tích đất công nghiệp đã cho thuê 136,95 ha, tỷ lệ lấp đầy chiếm 93,7% so diện tích đất công nghiệp.

Chấp thuận chủ trương đầu tư 04 dự án điện trên địa bàn. Thực hiện Kế hoạch cung cấp điện năm 2024, tính đến tháng 10/2024, ngành điện đã cung cấp gần 5.510 triệu kWh điện, đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt; bán sang Campuchia 153,6 triệu kWh điện và tiết kiệm được 139,2 triệu kWh điện. Tỷ lệ số hộ dân có điện sử dụng đạt 100%.

- Thương mại, dịch vụ và du lịch

Kim ngạch xuất khẩu đạt 6,65 tỷ USD, vượt 2% so với KH (KH 2024: tăng 8%), trong đó: khu vực nhà nước giảm 46,4%, khu vực ngoài Nhà nước tăng 46,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 10,5%. Hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng so với CK: chất dẻo (Plastic) nguyên liệu (+42,5%), hàng dệt may (+18,6%), vải các loại (+11,1%), phương tiện vận tải và phụ tùng (+3,5%),... riêng nhóm xơ, sợi dệt các loại giảm (-6,3%). Kim ngạch nhập khẩu đạt 5,69 tỷ USD, tăng 11,7% so với CK.

Lập phương án đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án xây dựng kho bãi xuất, nhập khẩu, logistic tại Khu kinh tế Cửa khẩu Xa Mát. Phê duyệt Phương án phát triển hệ thống dự trữ xăng dầu, khí đốt quy mô dưới 5.000 m trên địa bàn tỉnh. Triển khai thực hiện hiệu quả các chương trình, kế hoạch bình ổn thị trường và xúc tiến thương mại. Theo dõi sát tình hình thị trường, nguồn cung hàng hóa được bảo đảm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ ước đạt 120.562 tỷ đồng, tăng 10,7% so với CK (KH 2024: tăng 10%); trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa ước thực hiện 94.477 tỷ đồng, tăng 10,9% so CK.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch năm 2024. Hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch diễn ra sôi nổi với các chuỗi sự kiện văn hoá - du lịch, lễ hội và chương trình hợp tác, liên kết phát triển du lịch với các địa phương, doanh nghiệp, tổ chức các đoàn Farm/presstrip khảo sát, kết nối du lịch trong tỉnh với gần 50 doanh nghiệp du lịch, lữ hành trên cả nước tham gia. Tây Ninh là tỉnh thứ 03 trong số 63 tỉnh, thành phố trên cả nước đã xây dựng hoàn thiện Bộ nhận diện thương hiệu hình ảnh tỉnh Tây Ninh theo hướng dễ nhận diện, dễ ghi nhớ, tạo thiện cảm, thể hiện được những nét nổi bật riêng của tỉnh. Xây dựng, giữ gìn chất lượng sản phẩm, dịch vụ, uy tín gắn với quảng bá hình ảnh, thương hiệu du lịch Tây Ninh, nâng cao chất lượng để thu hút du khách' với 26 chương trình du lịch mới liên kết các sản phẩm, dịch du lịch. Khách tham quan các khu, điểm du lịch đạt khoảng 5,6 triệu lượt khách, tăng 9,7% so CK, tăng 2% so KH; tổng doanh thu du lịch ước đạt 2.500 tỷ đồng, tăng 24,4% so CK, tăng 8,7% so KH. Các khu di tích, điểm tham quan du lịch và các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh tích cực chỉnh trang cơ sở vật chất, tăng cường các sản phẩm dịch vụ du lịch mới, nâng cao chất lượng, phục vụ tốt nhu cầu của nhân dân và khách du lịch.

- Đầu tư phát triển

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước thực hiện 44.310 tỷ đồng, tăng 8,7% so với CK, đạt 36% GRDP (KH 2024: 37% GRDP). Bao gồm: khu vực dân doanh tăng 12,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,8%, khu vực Nhà nước giảm 4,5% so với CK.

Các tổ chức tín dụng tích cực triển khai các giải pháp, chính sách tín dụng hỗ trợ, người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn, lãi suất cho vay và tiếp tục đẩy mạnh công tác huy động vốn; tổng vốn huy động của các tổ chức tín dụng ước đạt 73.000 tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm (CK tăng 7,8%). Tổng dư nợ cho vay ước đạt 109.200 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm (CK tăng 14,6%); tỷ lệ nợ xấu 1,7% tổng dư nợ (đầu năm 0,83%).

Giao dự toán thu, chi ngân sách năm 2024 đúng, đủ theo quy định. Công tác quản lý, điều hành và khai thác các nguồn thu ngân sách địa phương được thực hiện chặt chẽ. Ước tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 12.249,8 tỷ đồng, đạt 110,4% dự toán được giao (KH 2024: 11.100 tỷ đồng), tăng 6,5% so với CK; trong đó thu nội địa 10.449,8 tỷ đồng, đạt 105,6% so dự toán, tăng 6,2% so với CK. Tổng chi ngân sách địa phương là 13.529,2 tỷ đồng, tăng 27,3% so với CK.

Tập trung chỉ đạo, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công. Kế hoạch đầu tư công năm 2024 (kể cả Chương trình mục tiêu quốc gia và Chương trình phục hồi và phát triển KTXH) do Thủ tướng Chính phủ giao là 4.174,32 tỷ đồng, do Hội đồng nhân dân tỉnh giao là 4.250,49 tỷ đồng. Đến hết ngày 31/10/2024, giải ngân 1.306,79 tỷ đồng, đạt 55,26% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, đạt 54,27% kế hoạch Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Ước giải ngân đến hết ngày 31/11/2024 là 3.091,96 tỷ đồng, đạt 74,07% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, đạt 72,74% kế hoạch Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Ước giải ngân đến hết ngày 31/01/2025 là 4.245,13 tỷ đồng, cơ bản hoàn thành kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao và đạt 99,9% kế hoạch Hội đồng nhân dân tỉnh giao.

Đối với vốn thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, năm 2024 được giao 124,612 tỷ đồng. Đến hết ngày 31/10/2024, giải ngân 91,66 tỷ đồng, đạt 73,56% so với KH. Ước giải ngân đến hết ngày 31/11/2024 là 106,34 tỷ đồng, đạt 85,33% so với KH. Ước giải ngân đến hết ngày 31/01/2025 là 124,62 tỷ đồng, hoàn thành kế hoạch được giao.

- Kết quả thực hiện một số dự án trọng điểm (Đính kèm Phụ lục III):

- Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh

Triển khai thực hiện Kế hoạch hành động về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2024, Kế hoạch thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2024, Chương trình xúc tiến đầu tư - thương mại - du lịch năm 2024. Ban hành danh mục dự án thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2024. Triển khai trang thông tin hỗ trợ doanh nghiệp và giám sát đầu tư tỉnh Tây Ninh". Trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết tiêu chí đấu thầu dự án đầu tư có sử dụng đất trên địa bàn tỉnh. Đang xây dựng, trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết quy định chế độ ưu đãi miễn tiền thuê đất đối với các dự án sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh thuộc ngành, nghề ưu đãi đầu tư đồng thời đáp ứng điều kiện loại hình, tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn xã hội hóa hoặc dự án phi lợi nhuận trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Tổ chức Hội nghị đối thoại giữa chính quyền với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2024 và Chương trình cà phê doanh nhân định kỳ hàng tháng.

Thu hút đầu tư trong nước ước đạt 9.374 tỷ đồng, giảm 27,1% so với CK, gồm: cấp mới 29 dự án với tổng vốn đăng ký 8.273 tỷ đồng (CK: 25 dự án, vốn đăng ký 10.080 tỷ đồng); 17 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn 1.208 tỷ đồng; 01 dự án giảm vốn 106 tỷ đồng; 08 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động 810 tỷ đồng. Lũy kế, trên địa bàn tỉnh có 718 dự án còn hiệu lực với vốn đăng ký là 139.969 tỷ đồng, trong đó 422 dự án đi vào hoạt động với số vốn 75.421 tỷ đồng.

Thu hút đầu tư nước ngoài ước đạt 455 triệu USD, bằng 62,5% so với CK, gồm: cấp mới cho 31 dự án với vốn đầu tư 154,6 triệu USD (CK: 28 dự án, vốn đăng ký 253 triệu USD); 22 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn 318,1 triệu USD; 04 lượt dự án điều chỉnh giảm vốn 17,7 triệu USD; 02 dự án nước ngoài chuyển thành dự án trong nước với vốn đăng ký 3,2 triệu USD; 02 lượt góp vốn, mua cổ phần với vốn đăng ký 0,2 triệu USD; 09 dự án thu hồi/chấm dứt hoạt động 143 triệu USD. Lũy kế, trên địa bàn tỉnh có 386 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với vốn đăng ký 9.916 triệu USD, trong đó 247 dự án đang hoạt động với số vốn 7.932 triệu USD.

Đã cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập mới cho 812 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký là 6.826 tỷ đồng (CK: 834 doanh nghiệp với vốn đăng ký 5.805 tỷ đồng). Có 143 doanh nghiệp giải thể với số vốn 1.824 tỷ đồng (CK: 157 doanh nghiệp giải thể với số vốn 1.366 tỷ đồng). Lũy kế, trên địa bàn tỉnh có 8.875 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký 207.356 tỷ đồng.

Thành lập mới 11 hợp tác xã (HTX), giải thể 01 HTX; lũy kế, trên địa bàn tỉnh có 195 HTX, tăng 10 HTX so với CK. Tổng số thành viên HTX 39.962 thành viên, tăng 2.520 thành viên so với CK. Số HTX hoạt động hiệu quả 104/177 HTX đang hoạt động, chiếm 58,8%. Triển khai Nghị quyết quy định chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2023 - 2025.

Quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phổ biến thi hành Luật Đất đai năm 2024 và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai trên địa bàn tỉnh. Rà soát, điều chỉnh Kế hoạch sử dụng 5 năm (2021 - 2025) tỉnh Tây Ninh theo đúng quy định Luật Đất đai năm 2024 và Luật Quy hoạch. Đang thực hiện điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021 - 2030 đồng thời với lập Kế hoạch sử dụng đất năm 2025 đối với 06 huyện Tân Châu, Tân Biên, Châu Thành, Bến Cầu, Gò Dầu, Dương Minh Châu và lập kế hoạch sử dụng đất hằng năm đối với Thị xã Hòa Thành, Trảng Bàng và Thành phố Tây Ninh.

Ban hành Quyết định quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất áp dụng trên địa bàn tỉnh. Tổ chức Hội nghị sơ kết thí điểm triển khai ứng dụng tra cứu thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại huyện Dương Minh Châu, tiếp tục triển khai tại 02 huyện Bến Cầu và Châu Thành. Công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được thực hiện theo đúng quy định, đã cấp 176 giấy chứng nhận cho tổ chức với tổng diện tích 492,107 ha; cấp 109.436 giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất với diện tích 21.611,44 ha, trong đó cấp 1.696 giấy chứng nhận lần đầu với diện tích 739,73 ha.

Rà soát, có kế hoạch khai thác các khu đất nông nghiệp quy mô lớn hết hạn, sắp hết hạn và đánh giá lợi thế, tiềm năng để đề xuất mời gọi đầu tư phù hợp và hiệu quả'. Thực hiện Phương án sử dụng đất bàn giao về địa phương quản lý của các công ty nông lâm nghiệp, trong đó các khu đất sau sắp xếp được đưa vào Danh mục dự án thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2024 và đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 03 dự án lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Phê duyệt Đề án thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và than bùn tỉnh Tây Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 205018, dự kiến các khu vực, điểm mỏ khoanh định phục vụ dự án, công trình trọng điểm. Công tác cấp phép khai thác khoáng sản, giấy phép về thăm dò, khai thác nước dưới đất, giấy phép xả thải vào nguồn nước đảm bảo theo quy định. Cấp 34 Giấy phép hoạt động khoáng sản, gồm: 07 giấy phép thăm dò khoáng sản, 09 quyết định phê duyệt trữ lượng khoáng sản, 05 giấy phép khai thác khoáng sản; 08 quyết định phê duyệt đề án đóng cửa mỏ khoáng sản, 05 quyết định đóng cửa mỏ khoáng sản.

Triển khai kế hoạch quản lý chất lượng không khí. Triển khai thực hiện Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính'; thực hiện giám sát nguồn thải sông, rạch theo kế hoạch bảo vệ môi trường sông, suối, kênh, rạch năm 2024, kịp thời xử lý khi có dấu hiệu ô nhiễm. Kiểm tra đột xuất tình hình bảo vệ môi trường tại các doanh nghiệp, xử lý nghiêm trường hợp vi phạm. Ban hành Quy định quản lý chất thải rắn sinh hoạt, y tế và các chất ô nhiễm liên quan đến vấn đề về bệnh tật, sức khỏe con người trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Duy trì 100% tỷ lệ chất thải rắn nguy hại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc đối tượng cấp sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại được thu gom, xử lý.

Tại hội nghị tổng kết và ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh và Ban hành chính 02 tỉnh Prey Veng và Svay Rieng, Vương quốc Campuchia, giai đoạn 2024 - 2029 vào ngày 24/6/2024, các địa phương đã trao đổi tình hình ô nhiễm nước thải xuyên biên giới và ký kết Bản thỏa thuận hợp tác, trong đó cam kết hợp tác về lĩnh vực môi trường.

- Công tác quy hoạch, hợp tác phát triển và liên kết vùng

Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị điều phối vùng Đông Nam Bộ lần thứ 3 và công bố Quy hoạch Vùng Đông Nam bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đề xuất một số cơ chế chính sách đặc thù về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ.

Tổ chức Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh Tây Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Triển khai Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh Tây Ninh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Rà soát các quy hoạch, kế hoạch chuyên ngành cần bãi bỏ sau khi Quy hoạch tỉnh được phê duyệt để tích hợp vào Nghị quyết bãi bỏ các nghị quyết quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân tỉnh trong kỳ hệ thống hóa 2019 - 2023 trên địa bàn tỉnh

Phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh triển khai thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài (giai đoạn 1) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư dự án tại Quyết định số 760/QĐ-TTg ngày 02/8/2024.

Trình Hội đồng nhân dân tỉnh phê duyệt Nghị quyết thông qua Đề án phân loại Đề đô thị thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh là đô thị loại III và Nghị quyết thông qua án phân loại đô thị thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh là đô thị loại III.

Trình Bộ Xây dựng thẩm định Nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Cửa khẩu Xa Mát, tỉnh Tây Ninh đến năm 2045. Trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt đồ án quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh đến năm 2045. Tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy đề xuất Bộ Chính trị cho chủ trương thực hiện thí điểm một số cơ chế, chính sách phát triển Khu Kinh tế Cửa khẩu Mộc Bài, kết nối hai nền kinh tế Việt Nam - Campuchia.

Ban hành các Chương trình phát triển đô thị đến năm 2030 và định hướng đến năm 2035: Thị xã Trảng Bàng, Thị xã Hòa Thành và Thành phố Tây Ninh. Công bố đồ án điều chỉnh quy hoạch chung Thành phố Tây Ninh đến năm 2045. Phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chung đô thị mới Châu Thành, Tân Biên, Tân Châu và nhiệm vụ điều chỉnh quy hoạch chung đô thị Hòa Thành, Trảng Bàng.

Thực hiện nghiêm công tác quản lý nhà nước về trật tự xây dựng và phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh đối với các hoạt động xây dựng không phép, sai phép, xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp; tự ý làm đường giao thông, phân lô, bán nền không phù hợp với quy hoạch đô thị, nông thôn, hình thành khu dân cư tự phát.

Tiếp tục triển khai thực hiện các Chương trình hợp tác kinh tế - xã hội với các tỉnh, thành vùng Đông Nam Bộ (đinh kèm Phụ lục IV). Tổ chức Tổng kết hợp tác với Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) giai đoạn 2019 - 2024 và đề xuất nội dung hợp tác cho giai đoạn 2025 - 2030. Làm việc với một số nhà đầu tư về nghiên cứu, đề xuất các dự án thuộc các lĩnh vực công nghiệp, khu đô thị, logistics, giao thông, giáo dục,... phù hợp với quy hoạch và định hướng mời gọi, thu hút đầu tư của tỉnh.

2. Các hoạt động văn hóa - xã hội

Tích cực triển khai các nhiệm vụ trong kế hoạch hành động về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp phát triển giáo dục nghề nghiệp; phối hợp công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh tốt nghiệp THCS và THPT vào học giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng Kế hoạch giáo dục tích hợp giữa Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và 2006, lồng ghép nội dung dạy học với hoạt động trải nghiệm phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh; chương trình giáo dục phổ thông 2018 được triển khai đến tất cả các khối lớp, đảm bảo 100% học sinh có đủ sách giáo khoa. Triển khai các chế độ, chính sách đối với nhà giáo, đồng thời áp dụng nhiều biện pháp hiệu quả để giải quyết tình trạng thiếu giáo viên. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2023 - 2025, định hướng đến năm 203025. Hoàn thiện và nâng cấp ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy. 100% cơ sở giáo dục xây dựng văn hóa ứng xử học đường. Thực hiện điều chỉnh Đề án đảm bảo cơ sở vật chất cho Chương trình giáo dục tiểu học, trung học cơ sở giai đoạn 2023 - 2025.

Trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết nội dung, mức chi thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030” trên địa bàn tỉnh Tây Ninh Phê duyệt Đề án thành lập Trường Cao đẳng Y tế Tây Ninh trên cơ sở nâng cấp Trường Trung cấp Y tế và trình Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xem xét quyết định thành lập. Triển khai Đề án đẩy mạnh phát triển giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 Trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy thống nhất chủ trương thành lập phân hiệu Trường Đại học tại Tây Ninh trên cơ sở tổ chức lại Trường Cao đẳng Sư phạm Tây Ninh.

Triển khai thực hiện Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2024 trên địa bàn tỉnh. Nghiệm thu 5/20 nhiệm vụ khoa học và công nghệ, công nhận kết quả thực hiện 02 nhiệm vụ; hướng dẫn 18 cơ sở,doanh nghiệp đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Kiểm định 3.206 phương tiện đo, hiệu chuẩn 457 phương tiện đo, kết quả đạt yêu cầu. Thông tin các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh”. Tổ chức cuộc thi “Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Tây Ninh” năm 2024- 2025. Chỉ số đổi mới sáng tạo của tỉnh năm 2023 đạt thứ hạng 38/63 tỉnh, thành phố.

Tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc của ngành y tế, nhất là công tác đấu thầu thuốc, mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế, những vấn đề tài chính trong nội bộ ngành để đảm bảo công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập. Xây dựng Đề án củng cố, phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống y tế công lập nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh đáp ứng nhu cầu của người dân. Thường xuyên kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, không xảy ra ngộ độc thực phẩm. Hợp tác với các bệnh viện lớn trong chuyển giao kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tại các bệnh viện của tỉnh như: thành lập đơn vị đột quỵ, chuyển giao kỹ thuật về chẩn đoán hình ảnh; hỗ trợ đào tạo tim mạch can thiệp, hồi sức cấp cứu; chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn sản xuất một số dụng cụ trợ giúp, dụng cụ thích nghi trong phục hồi chức năng. Đến cuối năm 2024, đạt 9,34 bác sĩ/vạn dân và 29 giường bệnh/vạn dân, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (thể thấp còi) còn 18,2%, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5%.

Thực hiện kịp thời các chính sách an sinh xã hội, chăm lo gia đình chính sách, người có công. Ban hành Quy chế quản lý các công trình ghi công liệt sĩ trên địa bàn tỉnh30. Hỗ trợ nhà ở người có công, thân nhân liệt sĩ: xây mới 11 căn, sửa chữa 67 căn với kinh phí 5,6 tỷ đồng. Xây dựng, sửa chữa 325 căn nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo, hộ cận nghèo với tổng giá trị gần 24,9 tỷ đồng. Thực hiện chính sách hỗ trợ đối tượng thuộc hộ gia đình không có khả năng thoát nghèo trên địa bàn tỉnh cho 567 hộ với 693 người với kinh phí trên 11 tỷ đồng. Ban hành Đề án sửa chữa, xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn Trung ương và hộ nghèo theo chuẩn nghèo tỉnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2025. Đang xây dựng Đề án phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đến năm 2030.

Tổ chức thu thập, cập nhật, tổng hợp thông tin về người lao động gắn với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và hỗ trợ việc làm bền vững tại các huyện, thị xã, thành phố”, kết quả thu thập được 199.196/213.353 số phiếu rà soát, đạt 93,36%. Đã cập nhật trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được 188.926/199.196 phiếu đã thu thập, tỷ lệ 94,84%. Giải quyết việc làm tăng thêm cho 17.150 lao động, tăng 7,2% so KH; thực hiện công tác tư vấn - giới thiệu việc làm cho 22.056 người. Tỷ trọng lao động ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản ước chiếm 13,9% so với tổng dân số. Đào tạo nghề cho 2.537 lao động nông thôn thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đạt 99,9% KH; đào tạo nghề cho 766 người lao động thuộc hộ nghèo, hộ mới thoát nghèo thuộc Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững. Triển khai công tác rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo đa chiều và hộ nghèo theo chuẩn nghèo trên địa bàn tỉnh năm 2024. Ước tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,055% đạt KH đề ra.

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được đầu tư, đổi mới, đa dạng về hình thức, hấp dẫn về nội dung phục vụ nhân dân trong các dịp lễ, tết, các sự kiện của đất nước, của tỉnh. Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở. Tập trung tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch. Trong năm, Di tích Ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam được xếp hạng di tích cấp quốc gia và Nghề làm nhang tỉnh Tây Ninh được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Các phong trào thể thao quần chúng được tổ chức sôi nổi với nhiều thành phần tham gia, tỷ lệ người tập luyện TDTT thường xuyên đạt 36%, nổi bật là giải chạy “TTC AgriS - Power Racing” năm 2024 với 3.282 vận động viên trong nước và quốc tế tham gia thi đấu. Tổ chức thành công 28 giải thể thao cấp tỉnh, cụm, khu vực và toàn quốc. Thành tích thi đấu thể thao của tỉnh đạt kết quả cao, năm 2024 đánh dấu sự trở lại của bóng đá Tây Ninh tại các giải thi đấu quốc gia.

3. Công tác cải cách hành chính; chuyển đổi số; công tác tư pháp; thanh tra và phòng, chống tham nhũng

- Công tác cải cách hành chính (CCHC), chuyển đổi số

Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng thể chế, tập trung xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời cụ thể hóa các luật của Quốc hội, nhất là Luật Đất đai, Luật Nhà ở. Trong năm, Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng, trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 105 văn bản quy phạm pháp luật (tăng 42 văn bản so với cùng kỳ 2023, đạt tỷ lệ 166%).

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; công bố Danh mục thủ tục hành chính thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình và Danh mục thủ tục hành chính thực hiện dịch vụ công (DVC) trực tuyến một phần trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện các chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX), chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ hành chính, nhà nước (SIPAS). Kết quả giải quyết thủ tục hành chính từ ngày 01/01/2024 đến hết ngày 10/11/2024: Số hồ sơ tiếp nhận phải giải quyết là 228.730 hồ sơ, trong đó có 226.100 hồ sơ đã giải quyết: 222.397 hồ sơ trước hạn, đúng hạn (97,23%), 3.703 hồ sơ quá hạn (1,62%); có 2.630 hồ sơ hồ sơ đang giải quyết: 2.498 hồ sơ trong hạn (1,09%); 132 hồ sơ quá hạn (0,06%).

Phát huy vai trò của Tổ công tác triển khai Đề án 06 tại cơ sở trong hướng dẫn thực hiện dịch vụ công trực tuyến, chuyển đổi số. Triển khai Kế hoạch thực hiện Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia, giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Tây Ninh” với 42 mô hình mô hình về chuyển đổi số và Kế hoạch triển khai thực hiện năm 202436 với 53 nhiệm vụ. Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch thực hiện “11 nhiệm vụ” trọng tâm nhằm đẩy mạnh Đề án 06/CP trên địa bàn tỉnh.

Ban hành Đề án thí điểm chuyển đổi số và xây dựng Thành phố Tây Ninh trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 203038 Triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu ngành, tích hợp lên IOC tỉnh và Cổng cung cấp dữ liệu mở đáp ứng tiêu chí “đúng, đủ, sạch, sống”. Có 86,7% kết quả giải quyết thủ tục hành chính được số hóa; 82,9% hồ sơ cấp kết quả điện tử; 24,9% thủ tục hành chính (TTHC) cung cấp dịch vụ công trực tuyến một phần; 46,8% TTHC cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình. Tỷ lệ người dân, doanh nghiệp hài lòng khi sử dụng DVC trực tuyến đạt 94,2%.

Hoàn thành việc xây dựng và phê duyệt Đề án vị trí việc làm theo đúng quy định. Tổ chức 02 khóa bồi dưỡng quốc tế “Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả”. Thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức năm 2024, đã tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho 2.150 lượt công chức, viên chức. Sau 3 năm triển khai “Đề án phát triển nguồn nhân lực khu vực công chất lượng cao tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030”, tỉnh đã thu hút được 03 thạc sĩ, 15 bác sĩ về công tác tại các đơn vị sự nghiệp theo Nghị quyết số 47/2022/NQ-HĐND; chọn cử đào tạo chương trình tiến sĩ 02, thạc sĩ 14, bác sĩ 95; hỗ trợ khuyến khích tự đào tạo sau đại học cho 27 trường hợp có trình độ thạc sĩ; bình quân mỗi năm phối hợp tổ chức khoảng 30 khóa đào tạo, bồi dưỡng cho 4.935 lượt cán bộ, công chức, viên chức.

Tổ chức thành công kỳ thi tuyển công chức tỉnh Tây Ninh năm 2023, tuyển dụng được 118 công chức bố trí cho các cơ quan, đơn vị, địa phương.

- Công tác tư pháp, thi hành án dân sự

Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân được thực hiện với nhiều hình thức, biện pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng và địa bàn thực hiện, đã thực hiện được 3.307 cuộc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật với hơn 128.063 lượt người tham gia, tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh 5.020 giờ.

Triển khai Kế hoạch công tác hỗ trợ pháp lý năm 2024; thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng 460 vụ cho 460 người thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí. Thực hiện 34 đợt truyền thông trợ giúp pháp lý kết hợp tư vấn pháp luật, cấp phát 8.160 tài liệu, tờ gấp pháp luật cho 1.825 lượt người tham dự. Tư vấn pháp luật tại buổi truyền thông 65 vụ cho 65 người; tư vấn pháp luật tại trụ sở cho 102 lượt người dân. Công tác hòa giải cơ sở đã tiếp nhận 501 vụ. Tổng số vụ đưa ra hòa giải là 501 vụ, trong đó hòa giải thành 472 vụ, đạt tỷ lệ 94%; hoà giải không thành 29 vụ, chiếm tỷ lệ 6%.

Rà soát, công bố kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước do Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành trong kỳ hệ thống hóa 2019 - 2023; Ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án “Phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đến năm 2030” trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

Thi hành án dân sự:

+ Về việc: Tổng số việc giải quyết là 29.430 việc, trong đó số thụ lý mới là 18.408 việc, tăng 22,3% so với CK (tăng 3.356 việc). Tổng số việc phải thi hành là 28.967 việc, trong đó số việc có điều kiện thi hành là 18.641 việc, đã thi hành xong 14.948 việc (tăng 1.900 việc so với CK), tỷ lệ 80,19%/83,25%, thiếu 3,06% so với chỉ tiêu được giao; số việc chưa có điều kiện giải quyết 6.990 việc.

+ Về tiền: Tổng số giải quyết 6.180,7 tỷ đồng, trong đó số thụ lý mới 3.252,5 tỷ đồng, tăng 64,83% so với CK (tăng 1.279,3 tỷ đồng). Tổng số phải thi hành 5.786,2 tỷ đồng, trong đó số việc có điều kiện thi hành là 2.441,4 tỷ đồng, đã thi hành xong 1.502,4 tỷ đồng (tăng 546 đồng so với CK), vượt 11,99% so với chỉ tiêu được giao; số chưa có điều kiện giải quyết 2.441,4 tỷ đồng.

- Công tác thanh tra, kiểm tra

Tổ Kiểm tra công vụ của tỉnh đã thực hiện 90 cuộc kiểm tra tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn, tập trung kiểm tra đột xuất tại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả các cấp để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính, thái độ phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính. Nhìn chung, đa số cán bộ, công chức, viên chức chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính.

Thực hiện 58 cuộc thanh tra hành chính (kỳ trước chuyển sang 16 cuộc; 37 cuộc theo kế hoạch và 21 cuộc đột xuất), đã ban hành kết luận 49 cuộc. Qua thanh tra, phát hiện vi phạm 29.478 triệu đồng và 46.421 m đất, kiến nghị thu hồi 10.756 triệu đồng, kiến nghị khác 18.723 triệu đồng và 46.421 mỏ đất, kiến nghị xử lý hành chính đối với 24 tổ chức và 198 cá nhân, chuyển cơ quan điều tra 01 vụ 02 đối tượng.

Thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đã triển khai 3.035 cuộc, ban hành kết luận 3.015 cuộc đối với việc chấp hành pháp luật của 8.815 cá nhân và 590 tổ chức, phát hiện 438 cá nhân và 73 tổ chức vi phạm, kiến nghị xử lý khác 12 triệu đồng; đã ban hành 106 quyết định xử phạt hành chính với số tiền 3.551 triệu đồng, số tiền đã thu qua kiến nghị thu hồi và xử phạt vi phạm hành chính là 3.356 triệu đồng (đạt 95%), vi phạm chủ yếu trong lĩnh vực giao thông, môi trường, kiểm dịch, y tế.

Công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC): Toàn tỉnh đã tiếp 1.518 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị (giảm 19% so với CK năm 2023); đến trình bày 1.169 vụ việc (giảm 16%), có 01 đoàn đông người (giảm 67%); phân loại, xử lý kịp thời 205 đơn khiếu nại, tố cáo đủ điều kiện xử lý. Tổng số đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền tiếp nhận, thụ lý là 63 đơn/63 vụ việc (54 đơn khiếu nại, 09 đơn tố cáo), trong đó có 35 đơn khiếu nại (giảm 76%) và 09 đơn tố cáo mới phát sinh (tăng 200%); đã giải quyết 37 đơn (30 đơn khiếu nại, 07 đơn tố cáo), đạt 59% trên tổng số thụ lý, số còn lại đang xác minh, xem xét giải quyết.

Công tác phòng, chống tham nhũng

Triển khai Kế hoạch thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng năm 2024; triển khai 296 văn bản tổ chức thực hiện công tác phòng chống tham nhũng; tổ chức 752 cuộc tuyên truyền với 18.451 lượt người tham dự. Tổ chức kiểm tra, thanh tra 22 cuộc/22 đơn vị, phát hiện 70 người vi phạm về tiêu chuẩn, định mức, chế độ với số tiền vi phạm phát hiện và xử lý trên 1,14 tỷ đồng; thực hiện chuyển đổi 115/123 trường hợp nhằm phòng ngừa tham nhũng.

Kết quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ tham nhũng trong phạm vi theo dõi, quản lý của địa phương: khởi tố 01 vụ án, 07 bị can, truy tố 02 vụ/14 bị can; xét xử sơ thẩm 02 vụ/05 bị cáo; xét xử phúc thẩm 02 vụ/08 bị cáo; đang tiếp tục theo dõi 03 vụ/16 người có dấu hiệu tham nhũng đang được xử lý, chưa có kết quả xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục nắm tiến độ xử lý 08 vụ việc, vụ án tham nhũng không thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban nhân dân tỉnh phát sinh trên địa bàn; xử lý kỷ luật 02 lãnh đạo; miễn trách nhiệm 02 lãnh đạo; xử lý hành chính về hành vi tham nhũng 02 vụ/6 người do đã bị tuyên án về hành vi tham nhũng.

4. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; đối ngoại được duy trì thường xuyên

Thực hiện tốt công tác quân sự, quốc phòng địa phương, hoàn thành công tác tuyển quân năm 2024 đạt chỉ tiêu ở 03 cấp. Ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân khu 7 tổ chức Lễ khánh thành đường tuần tra biên giới giai đoạn 2 với 34,93km và Lễ khởi công, xây dựng đoạn 2,9km (từ mốc 143 - 146). Khởi công xây dựng tăng dày 05 điểm/30 căn nhà liền kề chốt DQTT biên giới giai đoạn 3, năm 2024 - 2025. Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ huyện Châu Thành và thành phố Tây Ninh và 19/19 xã, phường, thị trấn đạt mục đích, yêu cầu đề ra; hoàn thành chỉ tiêu diễn tập giai đoạn 2021 - 2024.

Tình hình trật tự an toàn xã hội (từ ngày 15/12/2023 đến ngày 14/10/2024): Tiếp nhận 1.132 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự (tăng 41 vụ so với CK). Trong đó, tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng xảy ra 327 vụ (tăng 95 vụ so với CK), làm rõ 284 vụ 569 đối tượng, đạt 86,8%.

Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 587 vụ (tăng 39 vụ so với CK), điều tra làm rõ 488 vụ 1.033 đối tượng, đạt tỷ lệ 83,1%. Tội phạm về cờ bạc xảy ra 58 vụ (giảm 36 vụ so với CK), điều tra khám phá 58 vụ 354 đối tượng, đạt tỷ lệ 100%. Tội phạm về kinh tế phát hiện 70 vụ 105 đối tượng (tăng 03 vụ so với CK). Tội phạm về ma túy phát hiện 243 vụ (giảm 29 vụ so với CK), điều tra làm rõ 243 vụ 4.469 đối tượng, đạt tỷ lệ 100%. Tội phạm về lừa đảo, chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng xảy ra 68 vụ (tăng 57 vụ so với CK), điều tra làm rõ 7 vụ 20 đối tượng, đạt tỷ lệ 10,3%. Tội phạm về môi trường phát hiện 07 vụ (giảm 01 vụ so với CK), khởi tố 07 vụ 07 bị can, đạt tỷ lệ 100%. Tội phạm về giao thông xảy ra 85 vụ, điều tra làm rõ và khởi tố 85 vụ, 91 bị can, đạt tỷ lệ 100%.

Tai nạn giao thông: Xảy ra 341 vụ, chết 201 người, bị thương 212 người; so với CK: tăng 87 vụ, giảm 22 người chết, tăng 141 người bị thương. Tình hình cháy, nổ: xảy ra 19 vụ cháy (tăng 12 vụ so với CK), không gây thiệt hại về người.

Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, giải quyết tốt công tác bảo hộ công dân và người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Tây Ninh. Tổ chức hội nghị sơ kết và ký kết hợp tác với Ban hành chính 04 tỉnh Svay Riêng, Prey Veng, Tboung Khmum và Kampong Cham thuộc Vương quốc Campuchia; tổ chức lễ ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác giữa trường Đại học Inje, Hàn Quốc và trường Cao đẳng Sư phạm Tây Ninh.

II. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Mặt làm được

Hoạt động sản xuất, kinh doanh có xu hướng phục hồi tốt, tăng trưởng vượt kế hoạch đề ra. Các chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đã và đang phát huy hiệu quả, tạo động lực mới, thúc đẩy tăng trưởng.

Sản xuất công nghiệp đã dần phục hồi, hầu hết các sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều tăng. Trong đó, nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,4% do nhu cầu tiêu dùng tăng từ thị trường, một số doanh nghiệp mở rộng quy mô và bổ sung năng lực mới.

Hoạt động du lịch diễn ra sôi nổi, khách tham quan các khu, điểm du tăng 9,7% so CK; tổng doanh thu du lịch tăng 24,4% so CK. Các chương trình quảng bá, xúc tiến du lịch được đổi mới với nhiều phương thức, chủ động tham gia nhiều sự kiện, hội chợ du lịch trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy lượng khách du lịch.

Sản xuất nông nghiệp được duy trì ổn định, diện tích cây trồng xuống giống tăng so với CK; các kế hoạch sản xuất mùa vụ, kế hoạch khuyến nông, kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng được xây dựng và ban hành kịp thời. Các hoạt động thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được quan tâm thực hiện, thu hút các nhà đầu tư chiến lược mang lại giá trị cao cho ngành.

Phát huy vai trò của Tổ công tác đặc biệt để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp, nhà đầu tư, dự án đầu tư, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh.

Kim ngạch xuất khẩu vượt 2% so với KH.

Tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) đạt và vượt dự toán (vượt 10,4% dự toán), trong đó, có 11/15 khoản thu nội địa đạt từ 100% trở lên so với dự toán, 09/09 huyện, thị xã, thành phố thu NSNN đạt trên 100% dự toán.

Tổ công tác thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát, kịp thời chỉ đạo, định hướng xử lý các vướng mắc đẩy nhanh tiến độ thực hiện.

Công tác cải cách hành chính được triển khai quyết liệt, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Thực hiện đồng bộ các giải pháp, biện pháp, xây dựng các mô hình điểm về chuyển đổi số, triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả các nhiệm vụ theo Kế hoạch của Tổ công tác Đề án 06 tỉnh. Việc thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra công vụ tại các cơ quan, đơn vị trong tỉnh góp phần nâng cao trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật hành chính và tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cấp, các ngành trong tỉnh.

Các chính sách về an sinh xã hội chăm lo đời sống cho người dân luôn được quan tâm, nhất là các đối tượng gặp khó khăn, thiếu hoặc mất việc làm.

Công tác thanh tra được tổ chức có trọng tâm, trọng điểm, qua thanh tra đã chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, thực hiện chính sách pháp luật. Tình hình khiếu nại, tố cáo, phản ánh kiến nghị của công dân đã giảm, không phát sinh các vụ việc KNTC đông người mới, khiếu kiện vượt cấp về Trung ương.

Quốc phòng - an ninh được đảm bảo, không để xảy ra điểm nóng trên khu vực biên giới. Công tác đối ngoại được luôn được quan tâm thực hiện.

2. Tồn tại, hạn chế

Hoạt động sản xuất kinh doanh trong một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn; nợ xấu có xu hướng tăng. Thu hút đầu tư trong và ngoài nước giảm mạnh. Một số dự án đầu tư chậm triển khai thực hiện. Công tác chuẩn bị đầu tư của một số dự án đầu tư công còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ phân bổ vốn nên việc giải ngân chậm đầu năm và dồn về cuối năm.

Một số nhiệm vụ trình theo Chương trình công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ còn chậm.

Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX), Chỉ số hài lòng về sự phục vụ của cơ quan hành chính Nhà nước (SIPAS) chậm được cải thiện. Tỷ lệ người dân, doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính trên cổng dịch vụ công quốc gia còn thấp; vẫn còn tình trạng giải quyết thủ tục hành chính trễ hạn.

Vẫn còn tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế tại các cơ sở y tế công lập. Chất lượng khám chữa bệnh khu vực công chỉ cơ bản đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.

Tình hình tội phạm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiều hướng gia tăng, các loại tội phạm lừa đảo diễn biến rất phức tạp với nhiều phương thức thủ đoạn mới, tinh vi và ngày càng đa dạng; số vụ cháy tăng so CK; tai nạn giao thông tăng về số vụ và số người bị thương.

3. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế

3.1. Nguyên nhân khách quan

Tình hình thế giới và khu vực còn biến động phức tạp, khó lường, ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư, dòng vốn đầu tư toàn cầu quay ngược trở lại các nước phát triển.

Sản xuất nông nghiệp vẫn còn đối mặt khó khăn như thời tiết thay đổi thất thường, giá vật tư nông nghiệp đầu vào, công lao động tăng, chi phí sản xuất nông sản tăng cao. Đầu tư vào nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố về thị trường, vốn đầu tư, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Một số trong nhiệm vụ Chương trình công tác của Chính phủ, của Ủy ban nhân dân tỉnh chậm được phê duyệt do các quy định pháp luật liên quan đến việc lập, phê duyệt tương đối phức tạp, việc giải trình ý kiến các Bộ, ngành làm tốn nhiều thời gian.

Công tác đấu thầu thuốc còn một số bất cập, nhiều mặt hàng thuốc cơ sở y tế đề xuất đấu thầu chưa được đấu thầu do hết hạn giá kế hoạch tại thời điểm phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu. Nhiều cơ sở y tế không mua sắm được thuốc trúng thầu do vướng nợ quá hạn, dẫn đến nhà thầu trúng thầu không bán hàng. Một số mặt hàng nhà thầu trúng thầu không cung cấp được do đứt gãy chuỗi cung ứng, thuốc hết hạn số đăng ký nên không nhập khẩu, sản xuất được.

Tỷ lệ hồ sơ thực hiện thủ tục hành chính qua mạng còn thấp do người dân chưa quen các thao tác nộp hồ sơ trên mạng.

3.2. Nguyên nhân chủ quan

Thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài giảm: do doanh nghiệp FDI chủ yếu đầu tư trong khu công nghiệp. Hiện nay, số lượng KCN đang hoạt động ít, các công ty hạ tầng hạn chế hoạt động xúc tiến đầu tư; các vị trí còn lại sẵn sàng kêu gọi đầu tư của các KCN có diện tích nhỏ, không thuận lợi, khó thu hút (chỉ có KCN Phước Đông còn dư địa có khả năng thu hút các dự án đầu tư lớn). Hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ở tỉnh còn hạn chế, chi phí logistics tăng, nhân lực bắt đầu khó tuyển dụng, thiếu lao động kỹ thuật có chất lượng, lợi thế cạnh tranh về KCN không còn duy trì như trước.

Sự phối hợp giữa các ngành, địa phương liên quan có lúc chưa chủ động, chưa nhất quán; tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức ở một số sở, ngành, địa phương chưa cao. Kỷ luật, kỷ cương hành chính có lúc, có nơi chưa được thực hiện nghiêm túc. Vẫn còn một số cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức chưa thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính, sử dụng chưa hiệu quả thời gian làm việc.

Công tác chuẩn bị đầu tư một số dự án đầu tư công còn chậm, có dự án phải thực hiện điều chỉnh, phát sinh hạng mục cho phù hợp tình hình triển khai thực tế. Một số dự án chậm triển khai do vướng mặt bằng xây dựng. Ngoài ra, một số chủ đầu tư, nhà thầu thiếu năng lực tài chính, chủ quan, thiếu sự kiểm tra giám sát, ảnh hưởng đến tiến độ dự án.

Nguồn nhân lực y tế khu vực công hiện nay không đảm bảo về cả số lượng và chất lượng, ảnh hưởng đến chất lượng khám chữa bệnh.

Công tác cải cách hành chính chưa đồng đều, chưa toàn diện, chuyển đổi số còn chậm, một số địa phương chưa quyết liệt triển khai.

Ý thức của một bộ phận người dân trong chấp hành quy định pháp luật về an toàn giao thông chưa nghiêm; tội phạm sử dụng công nghệ cao lợi dụng thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với nhiều phương pháp, thủ đoạn hết sức tinh vi gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây