UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, địa phương tiếp tục tập trung triển khai nhiệm vụ công tác về phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2022 (Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2022 của Chính phủ); thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và phòng, chống dịch COVID – 19 (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 và Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 của Chính phủ). Một số kết quả cụ thể như sau:
1. Về kinh tế
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP – theo giá so sánh 2010) ước thực hiện 26.219 tỷ đồng, tăng 5,2% so với cùng kỳ (Kế hoạch năm 2022: tăng 6,5% trở lên). Tỷ trọng nông - lâm - thủy sản; công nghiệp - xây dựng; dịch vụ (chưa tính thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm) trong GRDP theo giá hiện hành ước đạt 18,6% - 47,3% - 29,4% (Kế hoạch năm 2022: 20 - 21%; 44 - 45%; 29 - 30%).
− Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định, ước tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm đạt 172.050 ha, bằng 68,6% so kế hoạch (KH) và bằng 100,4% so cùng kỳ (CK) .
Công tác phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng được thực hiện kịp thời, tình hình sâu bệnh gây hại cây trồng chủ yếu ở mức nhiễm nhẹ. Diện tích nhiễm sâu bệnh hại phát sinh giảm so với CK (-396,8 ha); riêng bệnh khảm lá phát sinh gây hại 32.746 ha khoai mì, giảm 5,8% so CK.
Tình hình chăn nuôi và giá sản phẩm chăn nuôi ổn định; số lượng vật nuôi tăng so với CK . Toàn tỉnh có 634 trang trại gia súc với tổng đàn 194.716 con và 102 trang trại chăn nuôi gia cầm ; có 62 cơ sở chăn nuôi được cấp giấy chứng nhận VietGAHP.
Diện tích nuôi trồng thủy sản (cho thu hoạch) đạt 264 ha, bằng 44,7% so với KH, bằng 91,4% so với CK; sản lượng thủy sản đạt 7.491 tấn, bằng 65,1% so với KH, bằng 81,0% so với CK. Hiện nay, tỉnh có trên 579,6 ha nuôi trồng thủy sản, tập trung chủ yếu tại các huyện Dương Minh Châu, Châu Thành, Bến Cầu và thị xã Trảng Bàng.
Các biện pháp phòng chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và thủy sản được thực hiện thường xuyên và xử lý kịp thời. Trong 6 tháng đầu năm, xuất hiện 19 ổ bệnh dịch tả heo Châu phi với số heo tiêu hủy là 501 con, tất cả 19 ổ dịch đã được khống chế và đã qua 21 ngày không phát sinh ổ dịch mới. Khống chế được bệnh Viêm da nổi cục trên trâu, bò.
Thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng, rừng phát triển ổn định và không xảy ra cháy rừng. Ban hành kế hoạch thực hiện Đề án “Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021 – 2025” trên địa bàn tỉnh. Kiểm tra, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về Luật Lâm nghiệp. Đã xảy ra 39 vụ vi phạm quy định về Luật Lâm nghiệp (bằng số vụ so với CK) ; điều tra, xác minh xử lý 20 vụ (16 vụ vi phạm hành chính, 04 vụ vi phạm hình sự); ra quyết định khởi tố chuyển cơ quan điều tra, xác minh xử lý 04 vụ vi phạm hình sự. Kiểm tra ngăn chặn được 06 trường hợp (giảm 10 vụ so CK) bao lấn chiếm, sử dụng đất lâm nghiệp không đúng mục đích.
Xảy ra 49 vụ thiên tại 07 huyện, thị xã gây thiệt hại 40 căn nhà, 10.328 ha cây trồng, tổng giá trị thiệt hại 52.921 triệu đồng (giảm 20 vụ thiên tai nhưng giá trị thiệt hại tăng 23.014 triệu đồng so với CK).
Tình hình đầu tư và chế biến các cây trồng chủ lực:
+ Diện tích mía được đầu tư và bao tiêu niên vụ 2021-2022 tính đến nay là 13.422 ha, năng suất bình quân là 73,25 tấn (đầu tư trong tỉnh: 4.514 ha; đầu tư tại Campuchia: 8.908 ha); lượng mía đưa vào sản xuất là 826.550 tấn mía; lượng đường sản suất là 73.588 tấn đường; CCS bình quân 9,36 CCS; tạp chất bình quân 4,48%; tỷ lệ mía trên đường 11,23; tỷ lệ xơ bình quân 17,89%.
+ Uớc khối lượng củ mì đưa vào chế biến khoảng 1.927.244 tấn, tăng 9,1% so với CK, sản xuất được 481.811 tấn bột (trong đó sản xuất công nghiệp là 1.638.158 tấn củ, với 409.540 tấn bột; cơ sở vừa và nhỏ là 289.086 tấn củ, với 72.271 tấn bột); giá thu mua củ mì tươi dao động từ 2.800-2.950 đồng/kg (30 chữ bột) tùy khu vực.
+ Diện tích cây cao su trên toàn tỉnh là 101.586 ha, tăng 3,0% so với KH, tăng 1,3% so với CK; diện tích cho sản phẩm: 86.800 ha, đạt KH đề ra, tăng 0,93% so với CK; sản lượng ước đạt 65.501 tấn, tăng 2,0% so với CK.
Thị xã Hòa Thành đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2020; hoàn thiện hồ sơ đề nghị xét, công nhận thành phố Tây Ninh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2020; xây dựng dự thảo Bộ tiêu chí về nông thôn mới các cấp trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2021 – 2025. Ban hành Quyết định công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới, xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2021 ; Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2022; Kế hoạch thực hiện trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận huyện Gò Dầu đạt chuẩn nông thôn mới, thị xã Trảng Bàng hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2022.
− Công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 8,3% so với CK, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,3%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 8,5% và ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,6%; ngành khai khoáng giảm 9,7%.
Hầu hết các công nghiệp chủ yếu đều tăng sản lượng, cụ thể: bột mì (+24,1%); dịch vụ thu gom rác thải không độc hại không thể tái chế (+16,6%); vỏ, ruột xe các loại (+15,8%); điện sản xuất (+9,1); điện thương phẩm (+6,9%). Một số ít sản phẩm duy trì hoặc giảm so CK: đường các loại đạt 84,8%; quần áo các loại đạt 89,8%; xi măng đạt 97,9%.
Tính đến 31/5/2022, ngành điện đã cung cấp 2.270,76 triệu kWh điện, đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt, bán sang Campuchia 70,22 triệu kWh điện và tiết kiệm được 48,23 triệu kWh điện. Tỷ lệ số hộ dân có điện sử dụng đạt 99,97%; tỷ lệ số hộ dân ở nông thôn có điện đạt 99,94%.
− Thương mại, dịch vụ và du lịch
Kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2022 đạt mức tăng trưởng cao so với CK. Kim ngạch xuất khẩu đạt 3,2 tỷ USD, đạt 59,5% so với KH, tăng 17,7% so với CK. Các mặt hàng có mức tăng cao: Sản phẩm mây, tre, cói và thảm (+36,9%); Vải các loại (+29,8%); Phương tiện vận tải và phụ tùng (+35,2%); Cao su (+22,4%); Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác (+14,2%). Kim ngạch nhập khẩu đạt 3 tỷ USD, đạt 61,8% so với KH, tăng 16% so với CK. Mặt hàng nhập khẩu tập trung chủ yếu ở nhóm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, đây là dấu hiệu khả quan cho hoạt động sản xuất của năm 2022 ở cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Các mặt hàng có mức tăng cao: Sắn và các sản phẩm từ sắn (+81,9%); Bông các loại (+45,9%); Hóa chất (+38,2%); Cao su các loại (+30,6%); Xơ, sợi dệt các loại (+8,7%).
Hoạt động thương mại dịch vụ đã từng bước khôi phục, thị trường hàng hóa và đời sống của người dân dần ổn định, các điểm bán lẻ, hệ thống phân phối, nhà hàng, khách sạn, hàng quán kinh doanh ăn uống… đã mở cửa trở lại toàn hệ thống; các cơ sở kinh doanh bán hàng song song cả hình thức trực tiếp và trực tuyến đã khiến tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ gia tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ ước đạt 47.238 tỷ đồng, tăng 11,2% so với CK; trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa ước thực hiện 37.322 tỷ đồng, tăng 10,8% so CK.
Các loại hình vận tải như: xe buýt, xe taxi, xe hợp đồng và xe tuyến cố định cũng hoạt động bình thường để đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân. Doanh thu dịch vụ vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 1.884 tỷ đồng, tăng 35,5% so với CK. Phê duyệt Đề án Phát triển, nâng cao năng lực vận tải đường thuỷ nội địa gắn với phát triển hệ thống cảng đường sông - dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh Tây Ninh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ban hành Quy định chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn đầu tư phương tiện vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
Tình hình du lịch Tây Ninh đã khởi sắc, tổng doanh thu du lịch 880 tỷ đồng, đạt 67,7% so KH, tăng 54,2% so CK; với hơn 3,3 triệu lượt khách tham quan tại các khu, điểm du lịch, tăng 124,3% so CK, tăng 7,4% so KH. Ban hành Kế hoạch thực hiện đồ án quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch quốc gia Núi Bà Đen đến năm 2035; Kế hoạch phát triển du lịch tỉnh Tây Ninh đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030. Xây dựng Kế hoạch và dự toán kinh phí tổ chức Lễ hội quảng bá “Nghệ thuật chế biến các món Chay tỉnh Tây Ninh” lần 1 năm 2022. Các hoạt động tuyên truyền và quảng bá du lịch được đẩy mạnh thực hiện trên mạng thông tin xã hội.
− Tài chính – ngân hàng
Tổng thu ngân sách nhà nước ước thực hiện 5.733 tỷ đồng, đạt 57,2% dự toán, giảm 3% CK; trong đó thu nội địa 4.942 tỷ đồng, đạt 56,7% so dự toán, giảm 4,4% so với CK. Thực hiện điều hành chi ngân sách nhà nước hiệu quả, chặt chẽ, tiết kiệm; bảo đảm kinh phí thực hiện chế độ, chính sách cho các lực lượng tuyến đầu phòng, chống dịch Covid-19 và hỗ trợ cho người dân bị ảnh hưởng của dịch Covid-19; các chính sách xã hội, hỗ trợ phục hồi kinh tế và dự phòng cho các trường hợp bất khả kháng, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,… Tổng chi ngân sách địa phương là 6.164 tỷ đồng, đạt 59,3% dự toán.
Triển khai thực hiện Nghị định số 15/2022/NĐ-CP, Nghị định số 18/2022/UBTVQH15; đồng thời ban hành Thông báo số 907/TB-CTTTNI ngày 24/02/2022 nhằm thông tin rộng rãi chính sách miễn, giảm thuế. Dự kiến số thu thuế giảm theo các chính như sau:
+ Giảm thuế suất GTGT từ 10% xuống 8% đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% và giảm 20% mức tỷ lệ % khi thực hiện xuất hóa đơn đối với cơ sở kinh doanh, hộ, CNKD: giảm 300 tỷ đồng (Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ về việc quy định chính sách miễn, giảm thuế theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, áp dụng từ ngày 01/02/2022 đến 31/12/2022).
+ Giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng (trừ etanol), dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn; giảm 70% mức thuế bảo vệ môi trường đối với dầu hỏa từ ngày 01/4/2022 đến 31/12/2022 theo quy định tại Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 ngày 23/3/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: giảm 210 tỷ đồng.
+ Giảm 30% tiền thuê đất, thuê mặt nước của năm 2022 đối với tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân đang được nhà nước cho thuê đất trực tiếp phải ngừng sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch Covid-19 theo quy định: giảm 50 tỷ đồng.
+ Giảm 50% lệ phí trước bạ đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước kể từ ngày 01/12/2021 đến hết ngày 31/5/2022: giảm năm 2022 là 50 tỷ đồng (Nghị định số 103/2021/NĐ-CP)
+ Giảm mức thu một số khoản phí, lệ phí nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19: giảm 4 tỷ đồng (Thông tư số 120/2021/TT-BTC ngày 24/12/2021 của Bộ Tài chính, có hiệu lực từ ngày 01/01/2022 đến ngày 30/6/2022).
Các tổ chức tín dụng đã thực hiện tốt công tác huy động vốn; tăng cường quảng bá, chăm sóc khách hàng và triển khai nhiều sản phẩm huy động vốn phù hợp nên vốn huy động đạt mức tăng trưởng khá cao. Tổng vốn huy động của các tổ chức tín dụng ước đạt 59.963 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm và tăng 19,4% so với CK; trong đó vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 5.890 tỷ đồng, tăng 3,1% so đầu năm và chiếm 9,8% tổng nguồn vốn huy động. Với đà phục hồi và phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn cao nên đã tác động tốt đến hoạt động tín dụng của ngành; các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã duy trì ổn định mức lãi suất cho vay, tích cực tiếp cận, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong vay vốn; dư nợ tín dụng trong 6 tháng đầu năm có mức tăng trưởng mạnh, tổng dư nợ cho vay ước đạt 82.795 tỷ đồng, tăng 9,0% so với đầu năm và tăng 14,7 so với CK; tỷ lệ nợ xấu 0,43% tổng dư nợ.
Tiếp tục triển khai thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch COVID-19. Kết quả đến 15/5/2022:
+ Dư nợ gốc được cơ cấu lại nợ và miễn, giảm lãi là 115 tỷ đồng với 1.177 khách hàng. Lũy kế đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ và miễn, giảm lãi vay cho 2.968 khách hàng với tổng dư nợ gốc là 3.127 tỷ đồng (trong đó có 43 doanh nghiệp với tổng dư nợ gốc là 2.629 tỷ đồng).
+ Dư nợ cho vay mới với lãi suất thấp hơn lãi suất thông thường là 10.715 tỷ đồng với 15.241 khách hàng (trong đó có 296 doanh nghiệp với dư nợ 6.842 tỷ đồng). Lũy kế đã cho vay mới với lãi suất thấp hơn lãi suất thông thường là 53.498 tỷ đồng (trong đó doanh nghiệp là 36.875 tỷ đồng).
+ Ngân hàng Chính sách xã hội đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho 119.084 khách hàng với dư nợ là 738 tỷ đồng; lũy kế đến nay là 1.170 tỷ đồng với 275.087 khách hàng; thực hiện cho vay người sử dụng lao động trả lương ngừng việc theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ đến 31/5/2022 là 78,3 tỷ đồng của 05 doanh nghiệp với 10.523 lao động.
− Vốn đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước thực hiện 16.412 tỷ đồng, đạt 46,4% so với KH, tăng 10,8% so với CK. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 23,4%, khu vực nhà nước tăng 6,4%, khu vực dân doanh tăng 1,9%, so với CK.
Tỉnh đã cơ bản giao hết kế hoạch vốn năm 2022, tổng vốn đầu tư XDCB năm 2022 là 4.165,829 tỷ đồng. Đến ngày 30/6/2022 giải ngân 1.278,319 tỷ đồng, đạt 48% KH Thủ tướng Chính phủ giao, đạt 40% KH HĐND tỉnh giao.
Đối với nội dung thực hiện các dự án/công trình thuộc nguồn vốn NSNN triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ, UBND tỉnh đã có văn bản báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Công văn số 698/UBND-KT ngày 25/02/2022 của UBND tỉnh, qua đó tỉnh đã có kiến nghị về việc triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn 2021-2025 và năm 2022.
Thực hiện đề nghị của Bộ Y tế tại Công văn số 2028/BYT-KHTC ngày 21/4/2022 và của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Công văn số 2555/BKHĐT-TH ngày 18/4/2022, UBND tỉnh tiếp tục có văn bản số 1335/UBND-KT ngày 22/4/2022 về việc rà soát danh mục các nhiệm vụ, dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội - lĩnh vực y tế. Ngày 25/5/2022, Bộ Y tế có Công văn số 2717/BYT-KHTC về việc rà soát danh mục các nhiệm vụ, dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, UBND tỉnh có văn bản số 1887/UBND-KT ngày 06/6/2022 về việc rà soát danh mục các nhiệm vụ, dự án thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội - lĩnh vực y tế.
Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa giao kế hoạch vốn giai đoạn 2021-2025 và năm 2022 theo đề xuất của địa phương, do vậy tỉnh chưa triển khai thực hiện các dự án.
− Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh
Thu hút đầu tư trong nước ước đạt 10.039 tỷ đồng, tăng 15,7% so với CK. Cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và chủ trương đầu tư mới 13 dự án với tổng vốn đăng ký 7.732 tỷ đồng, trong đó cấp chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư cho 02 dự án điện năng lượng mặt trời tại khu vực bán ngập thuộc hồ Dầu Tiếng với tổng vốn đăng ký là 7.129,8 tỷ đồng. Có 10 dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn tăng 2.307 tỷ đồng và thu hồi 02 dự án với vốn đăng ký 61 tỷ đồng. Đến ngày 06/6/2022, trên địa bàn tỉnh có 657 dự án đầu tư trong nước còn hiệu lực với vốn đăng ký là 109.661 tỷ đồng; trong đó có 342 dự án đi vào hoạt động với số vốn 64.062 tỷ đồng, 74 dự án đang triển khai xây dựng với số vốn 16.504 tỷ đồng, 212 dự án chưa xây dựng với số vốn 28.168 tỷ đồng, 25 dự án dừng hoạt động với số vốn 1.311 tỷ đồng; 04 dự án đã được cấp chủ trương đầu tư, đang thực hiện thủ tục lựa chọn nhà đầu tư theo quy định.
Thu hút đầu tư nước ngoài ước đạt 245 triệu USD, giảm 46,5% so với CK. Cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới 03 dự án với vốn đăng ký 213 triệu USD; 06 dự án điều chỉnh tăng vốn với vốn tăng 32 triệu USD; 03 dự án điều chỉnh giảm vốn 27 triệu USD; có 01 dự án mới do tách dự án theo quy định Luật Đầu tư 2020 với vốn đăng ký là 3 triệu USD; 02 lượt góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào công ty trong nước với vốn đăng ký là 0,67 triệu USD; thu hồi 02 dự án với vốn đăng ký 1,5 triệu USD. Đến ngày 06/6/2022, trên địa bàn tỉnh có 346 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký 8.665 triệu USD, trong đó có 244 dự án hoạt động với số vốn 6.750 triệu USD; 39 dự án đang xây dựng với số vốn 921 triệu USD; 51 dự án chưa triển khai với số vốn 963 triệu USD; 12 dự án dừng hoạt động với số vốn 31 triệu USD; vốn thực hiện lũy kế chiếm khoảng 50% tổng vốn đăng ký.
Cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập mới cho 422 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký là 3.835 tỷ đồng, so với CK tăng 6,0% về số doanh nghiệp và giảm 18,9% về vốn đăng ký. Có 68 doanh nghiệp giải thể với số vốn 454 tỷ đồng. Lũy kế có 7.026 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký 164.914 tỷ đồng.
Thành lập mới 05 hợp tác xã (HTX), không có HTX giải thể. Lũy kế đến nay trên địa bàn tỉnh có 165 HTX, tăng 11 HTX so với CK, có 16 HTX ngưng hoạt động kéo dài khó khăn trong việc giải thể. Tổng số thành viên HTX là 37.140 thành viên, tăng 100 thành viên so với CK.
− Quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường
Tiếp tục thực hiện các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, công tác đo đạc, … theo đúng quy định. Đã thực hiện cấp 108 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức với tổng diện tích 56,24 ha và 818 giấy chứng nhận lần đầu cho cá nhân, hộ gia đình với diện tích 176,75 ha. Thực hiện thẩm định hồ sơ nghiệm thu đo đạc phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ thu hồi đất sau phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam – Campuchia.
Ban hành quyết định thu hồi và giao đất cho UBND các huyện nơi có đất để triển khai thực hiện Phương án sử dụng quỹ đất Công ty Cổ phần Cao su 1-5 Tây Ninh bàn giao về địa phương quản lý, cụ thể: thu hồi 67,43 ha đất tại xã Bàu Năng và Chà Là, huyện Dương Minh Châu và giao 67,43 ha đất cho UBND huyện Dương Minh Châu quản lý; thu hồi 2.520,18 ha đất tại xã Suối Dây và xã Tân Đông, huyện Tân Châu và giao 2.520,18 ha đất tại xã Suối Dây và xã Tân Đông, huyện Tân Châu cho UBND huyện Tân Châu quản lý.
Đã cấp 09 Giấy phép khai thác, sử dụng nước; 01 Giấy phép thăm dò nước dưới đất; 03 Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước. Ban hành 19 Quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, với tổng số tiền 1,58 tỷ đồng. Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, tài nguyên, khoáng sản chưa khai thác; bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội tại khu vực có quy hoạch khoáng sản theo quy định. Đã cấp 02 Giấy phép thăm dò khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường; 01 Giấy phép khai thác khoáng sản; 05 quyết định phê duyệt đề án đóng cửa mỏ khoáng sản; 01 quyết định đóng cửa mỏ khoáng sản.
Xây dựng, triển khai phương án ứng phó các tình huống do thiên tai ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống của nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện điều tra, đánh giá hiện trạng phát sinh, quản lý chất thải nguy hại, chất thải y tế và xây dựng quy chế quản lý chất thải nguy hại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Xây dựng lộ trình, kế hoạch thực hiện giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với thực tế trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2022-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
− Xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển đô thị
Triển khai Đề án rà soát thực hiện quy hoạch và định hướng phát triển hạ tầng giao thông giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tư lệnh Quân khu 7, các đơn vị thuộc các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh có liên quan và nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đường Hồ Chí Minh đoạn Chơn Thành - Đức Hoà; đường Tuần tra biên giới các đoạn còn lại; hoàn thành hồ sơ để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài; triển khai thực hiện các bước tiếp theo dự án cao tốc Gò Dầu - Xa Mát (giai đoạn 1 đoạn từ Gò Dầu đến thành phố Tây Ninh).
Thực hiện thông xe kỹ thuật Cầu An Hòa; Đường Trần Phú (đoạn từ cửa số 7 nội ô Tòa Thánh đến QL22B). Tiếp tục thi công các dự án Nâng cấp, mở rộng Đường ĐT.782-ĐT.784 (đoạn từ tuyến tránh QL.22 đến ngã tư Tân Bình); đường Đất Sét - Bến Củi; Nâng cấp, mở rộng ĐT.795; Đường liên tuyến kết nối vùng N8-787B-789; Đường ĐT.794 đoạn từ ngã ba Kà Tum đến cầu Sài Gòn (giai đoạn 2). Hoàn thành công tác chuẩn bị đầu tư dự án Ngầm hoá CMT8 từ cầu Quan đến Điện Biên Phủ; Đường Trường Hoà – Chà Là (Đoạn từ đường Nguyễn Văn Linh đến ĐT.784); Tiểu dự án bồi thường giải phóng mặt bằng đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh – Mộc Bài.
Trình Bộ Xây dựng thẩm định Nhiệm vụ quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài đến năm 2045. Triển khai thực hiện Chương trình phát triển đô thị tỉnh Tây Ninh đến năm 2030; Chương trình phát triển nhà ở tỉnh Tây Ninh đến năm 2030. Ban hành Kế hoạch phát triển nhà ở tỉnh Tây Ninh đến năm 2025 và năm 2022; khung giá bán, giá thuê, thuê mua nhà ở xã hội do hộ gia đình, cá nhân đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
2. Văn hóa, xã hội
Tổ chức dạy học phù hợp, thích ứng nhanh với tình hình dịch bệnh. Tổ chức thi, kiểm tra đánh giá các kỳ thi, xét công nhận hoàn thành chương trình các cấp học kịp thời, đảm bảo hoàn thành theo đúng tiến trình thời gian năm học. Tổng kết năm học 2021-2022, tỷ lệ học sinh được xét công nhận hoàn thành chương trình tiểu học đạt 99,98% (năm học trước: 99,99%); xét công nhận tốt nghiệp trung học cơ sở đạt 100% (năm học trước: 100%). Tổ chức tuyển sinh vào lớp 6 và tổ chức kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 trung học phổ thông năm học 2022-2023. Triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đảm bảo chất lượng và hiệu quả đối với lớp 2, lớp 6 trong năm học 2021-2022. Phối hợp tổ chức kênh tiếp nhận quyên góp máy tính đã qua sử dụng để hỗ trợ cho học sinh nghèo có điều kiện học tập, với chủ đề “Máy tính cũ – Công dân số mới”; phát động quyên góp, ủng hộ Chương trình “Máy tính cho em”. Kết quả đã phối hợp với VNPT Tây Ninh tổ chức trao tặng 2.151 máy tính bảng cho học sinh tiểu học trên địa bàn tỉnh; vận động được 1260 máy tính để bàn, 932 máy tính bảng, 557 thiết bị học trực tuyến, 6 laptop, 636 smartphone, 1000 sim điện thoại và tiền mặt 50 triệu đồng.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2030. Ban hành kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2022; Kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm vụ truy xuất nguồn gốc trên địa bàn tỉnh năm 2022; Kế hoạch triển khai Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ quốc gia đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Triển khai 19 cuộc thanh, kiểm tra theo kế hoạch đối với 98 cơ sở. Qua kiểm tra, hầu hết các cơ sở đều chấp hành đúng theo quy định pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Tuy nhiên, vẫn còn một số cơ sở chưa thực hiện quy trình kiểm soát bể chứa xăng; chưa thực hiện việc lưu mẫu, biên bản lấy mẫu; chưa lập sổ theo dõi việc tự kiểm tra định kỳ; không lưu giữ hồ sơ chất lượng hàng hoá tại nơi bán hàng... Đoàn kiểm tra lập biên bản nhắc nhở, hướng dẫn và yêu cầu các cơ sở kinh doanh thực hiện đúng theo quy định. Kiểm định 3.153 phương tiện đo, thử nghiệm 22 mẫu nước; thực hiện 152 hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghệ. Tổ chức thực hiện các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và hưởng ứng lễ Mít tinh, tuần hành Ngày Quyền của người tiêu dùng Việt Nam năm 2022.
Thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh; đảm bảo vệ sinh an toàn, không xảy ra ngộ độc thực phẩm. Tuy nhiên, một số bệnh truyền nhiễm có số ca mắc cao (bệnh tay chân miệng: 286 ca; bệnh sốt xuất huyết: 2.129 ca, trong đó ghi nhận 04 ca tử vong do sốt xuất huyết). Thực hiện chiến dịch tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ em từ đủ 5 tuổi đến dưới 12 tuổi trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2022. Đến nay , tỷ lệ bao phủ đủ 2 mũi vắc-xin phòng COVID-19 cho người từ 18 tuổi trở lên là 94,4%, mũi 3 là 59,78%; tỷ lệ tiêm vắc-xin mũi 2 cho trẻ em từ 12-17 tuổi là 97,54%, mũi 3 là 59,32%; tỷ lệ tiêm vắc-xin mũi 1 cho trẻ em từ 5-11 tuổi là 48,12%. Chỉ đạo hướng dẫn các đơn vị triển khai ký xác nhận “Hộ chiếu vắc xin”. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế ước đạt 86,8% so với dân số toàn tỉnh.
Công tác chăm lo gia đình chính sách, người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện kịp thời, hiệu quả. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Xây tặng 111 căn nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Phê duyệt kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021; tổng rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025 trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021 còn 1.612 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 0,5% (giảm 0,29% so năm 2020); tổng rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022-2025: tổng số hộ nghèo là 2.064 hộ/4.711 người (tỷ lệ 0,64%), tổng số hộ cận nghèo là 3.740 hộ/10.750 người (tỷ lệ 1,17%).
Các hoạt động hỗ trợ người lao động tìm việc làm, học nghề, cung ứng lao động và quản lý lao động người nước ngoài làm việc tại tỉnh được duy trì thực hiện . Tỉnh tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19 kịp thời, hiệu quả. Tình hình quan hệ lao động tương đối ổn định, hài hòa, người lao động sau khi nghỉ Tết quay trở lại làm việc chiếm tỷ lệ khoảng 90%. Trong 6 tháng đầu năm, nhu cầu tuyển dụng lao động tại các doanh nghiệp khu công nghiệp, khu kinh tế khoảng 26.802 người. Tổ chức ngày hội việc làm tại Thị xã Trảng Bàng và huyện Tân Biên với 2 hình thức trực tiếp và trực tuyến qua sóng livestream qua trang fanpage thông tin việc làm, dự kiến số lượng tham gia khoảng 1.350 người. Tuy nhiên thực tế, số lượng người lao động tham gia khá khiêm tốn, doanh nghiệp chưa tuyển dụng được lao động theo nhu cầu.
Cơ bản hoàn thành việc thực hiện Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ về chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, UBND tỉnh ủy quyền cho UBND các huyện, thị xã, thành phố phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động theo Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
Các chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19: Tính đến ngày 26/5/2022, tỉnh đã phê duyệt danh sách hỗ trợ cho 554.510 người, với số tiền 1.013,3 tỷ đồng.
Thực hiện các chính sách cho vay ưu đãi theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ trên địa bàn tỉnh thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội Chi nhánh Tây Ninh đến ngày 31/5/2022:
+ Cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm theo quy định tại Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 09/7/2015 và Nghị định số 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019 của Chính phủ: được giao 30 tỷ, đã giải ngân 30 tỷ đồng cho 699 lao động;
+ Cho vay đối với cá nhân, hộ gia đình để mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 và khoản 10, Điều 1, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của Chính phủ: được giao 64 tỷ, đã giải ngân 3,976 tỷ đồng cho 12 khách hàng;
+ Cho vay đối với học sinh, sinh viên để mua máy vi tính, thiết bị học tập trực tuyến và trang trải chi phí học tập: được giao 2,3 tỷ, đã giải ngân 1,29 tỷ đồng cho 129 học sinh, sinh viên;
+ Cho vay thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 và Nghị quyết số 120/2020/QH14: được giao 3 tỷ, chưa có đối tượng để cho vay;
+ Cho vay đối với các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập phải ngừng hoạt động ít nhất 1 tháng theo yêu cầu phòng, chống dịch: được giao 4,8 tỷ, đã giải ngân 2,22 tỷ đồng cho 27 cơ sở.
Các hoạt động vui chơi, giải trí; văn hóa, thể thao bảo đảm phục vụ nhân dân phù hợp với tình hình dịch bệnh COVID-19. Triển khai kế hoạch thực hiện Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2021-2025. Ban hành Kế hoạch hoạt động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” năm 2022 và giai đoạn 2022-2026. Tổ chức thành công Hội thảo khoa học cấp tỉnh “Nhận diện Bản sắc văn hóa và truyền thống gia đình Tây Ninh”.
Tổ chức Đại hội thể dục thể thao cấp tỉnh lần thứ IX năm 2022. Tham dự 16 giải thi đấu cụm, miền quốc gia, kết quả đạt 83 huy chương các loại (30 HCV, 23 HCB, 30 HCĐ). Trong đó nổi bậc nhất là môn Quần vợt Nam đạt 06 huy chương (01HCV - 02HCB - 03HCĐ) ở nội dung Đơn nam, Đôi nam, Đồng đội nam tại Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (Seagames 31).
3. Công tác cải cách hành chính; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; phòng, chống tham nhũng
Ban hành Kế hoạch phát động phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính và kiểm soát thủ tục hành chính trên địa bàn tỉnh Tây Ninh từ nay đến năm 2025. Kết quả giải quyết thủ tục hành chính từ ngày 01/01/2022 đến 15/6/2022, số hồ sơ tiếp nhận phải giải quyết là 215.428 hồ sơ, trong đó có 200.000 hồ sơ giải quyết trước hạn, đúng hạn (chiếm tỷ lệ 92,84%); 9.329 hồ sơ chưa giải quyết – còn hạn (chiếm tỷ lệ 4,33%); 6.099 hồ sơ chưa giải quyết – quá hạn và đã giải quyết – quá hạn (chiếm tỷ lệ 2,83%).
Ban hành quy định về tiêu chí đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức và UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Tây Ninh; quy định về quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người quản lý doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý của UBND tỉnh Tây Ninh. Tổ chức thành công kỳ thi tuyển công chức năm 2021 với 101 thí sinh trúng tuyển. Thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo Nghị định 108/2014/NĐ-CP cho 19 trường hợp.
Công tác tuyên truyền pháp luật cho người dân được đẩy mạnh với nhiều hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp với từng nhóm đối tượng , thực hiện tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được 1.556 cuộc với hơn 64.915 lượt người tham gia, tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh 2.449 giờ, các tủ sách pháp luật ở cơ sở đã thu hút 642 lượt người đọc.
Thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng 94 vụ cho 94 người thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí. Số vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng đã hoàn thành là 60 vụ cho 60 người. Thực hiện 02 cuộc truyền thông công tác trợ giúp pháp lý, tuyên truyền phổ biến và tư vấn pháp luật bằng hình thức trực tuyến. Tổ chức tư vấn pháp luật đối với những vụ việc mang tính chất đơn giản tại trụ sở cho 40 lượt người dân. Công tác hòa giải của các Tổ hòa giải ở cơ ở đã thụ lý 168 vụ tranh chấp, đã đưa ra hòa giải 156 vụ, trong đó: số vụ hòa giải thành 137 vụ (87,82%); số vụ hòa giải không thành hướng dẫn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết 19 vụ (12,18%); số vụ đang tiến hành hòa giải: 12 vụ.
Thi hành án dân sự (từ ngày 1/10/2021 đến 31/5/2022): Tổng số việc giải quyết là 21.557 việc (trong đó số thụ lý mới là 7.861 việc). Tổng số việc phải thi hành: 21.360 việc, trong đó số việc có điều kiện thi hành 14.595 việc, đã thi hành xong 6.934 việc; số việc chưa có điều kiện giải quyết 6.531 việc.
Thực hiện 29 cuộc thanh tra hành chính (kỳ trước chuyển sang 07 cuộc; 22 cuộc theo kế hoạch và 07 cuộc đột xuất), chủ yếu trên lĩnh vực tài chính ngân sách (09/29 cuộc), còn lại là các lĩnh vực đất đai, quản lý hành chính, xây dựng cơ bản; đã ban hành kết luận 13 cuộc; phát hiện vi phạm 8.070 triệu đồng và 4.424 m2 đất, kiến nghị thu hồi 2.112 triệu đồng, kiến nghị khác 5.958 triệu đồng và 4.424 m2 đất.
Thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đã triển khai 3.164 cuộc, ban hành kết luận 3.146 cuộc đối với 13.799 cá nhân và 297 tổ chức, phát hiện 195 cá nhân và 33 tổ chức vi phạm, đã ban hành 215 quyết định xử phạt hành chính với số tiền 2.060 triệu đồng, số tiền đã thu qua kiến nghị thu hồi và xử phạt vi phạm hành chính là 2.060 triệu đồng (đạt 100%), kiến nghị chuyển cơ quan điều tra 01 vụ 01 đối tượng , vi phạm chủ yếu trong lĩnh vực giao thông, môi trường, kiểm dịch, y tế.
Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân: Toàn tỉnh đã tiếp 579 lượt với 666 người, có 05 lượt đoàn đông người ; phân loại, xử lý kịp thời 107 đơn khiếu nại, tố cáo đủ điền kiện xử lý. Tổng số đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết là 37 đơn (29 đơn khiếu nại, 08 đơn tố cáo), đã giải quyết 29 đơn (23 đơn khiếu nại, 06 đơn tố cáo), đạt 78% trên tổng số thụ lý, số còn lại đang xác minh, xem xét giải quyết.
Ban hành Kế hoạch thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng năm 2022; tổ chức 495 cuộc tuyên truyền với 15.650 lượt người tham dự.
Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về công khai minh bạch tại 13 cơ quan, đơn vị , chưa phát hiện sai phạm; tiến hành 07 cuộc thanh tra, kiểm tra về công tác quản lý sử dụng tài chính liên quan đến chế độ, định mức, tiêu chuẩn , phát hiện sai phạm 06 cuộc/20 người với sai phạm đã phát hiện và xử lý là 372.598.559 đồng; tiến hành kiểm tra đối với 01 cơ quan về việc thực hiện quy tắc ứng xử, không phát hiện sai phạm; đã thực hiện chuyển đổi 10/173 trường hợp nhằm phòng ngừa tham nhũng.
Kết quả phát hiện, xử lý tham nhũng: qua hoạt động giám sát, kiểm tra và tự kiểm tra nội bộ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý, phát hiện 01 vụ/01 người có dấu hiệu tham nhũng, đã chuyển cơ quan điều tra, chưa khởi tố; đã thu hồi 39.204.000 đồng/69.979.000 đồng tài sản tham nhũng; khởi tố 02 vụ, 07 bị can; xét xử sơ thẩm 04 vụ/07 bị cáo; xét xử phúc thẩm: 02 vụ/04 bị cáo; hiện còn lại 16 vụ/38 người đang được xử lý, chưa xét xử; đã xử lý kỷ luật 03 trường hợp lãnh đạo để xảy ra tham nhũng; 03 trường hợp đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; tạm đình chỉ 01 trường hợp liên quan đến quá trình xác minh dấu hiệu hành vi tham nhũng do có dấu hiệu xung đột lợi ích (cản trở quá trình điều tra), hiện đã chấm dứt tạm đình chỉ; xử lý kỷ luật 01 vụ/02 người đã có hành vi tham nhũng đã được xét xử.
4. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; đối ngoại được duy trì thường xuyên
Thực hiện tốt công tác quốc phòng địa phương. Triển khai kế hoạch mua sắm trang thiết bị công cụ hỗ trợ cho dân quân tự vệ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025, hoàn thành công tác tuyển quân năm 2022. Tổ chức tìm kiếm quy tập hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh trong các thời kỳ chiến tranh ở Campuchia về nước đợt 2 giai đoạn XXI (mùa khô 2021-2022) từ ngày 21/02/2022 đến ngày 30/6/2022, kết quả đến 10/5/2022 đã quy tập được 176 bộ hài cốt liệt sỹ. Bàn giao 10 căn nhà/02 điểm dân cư liền kề chốt dân quân, lũy kế đã xây dựng 11/21 điểm dân cư, 75 căn nhà liền kề chốt dân quân. Các lực lượng Công an, Quân sự, Biên phòng đã phối hợp chặt chẽ, theo dõi nắm chắc tình hình, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; tuần tra, kiểm soát bảo đảm an ninh trật tự trên tuyến biên giới.
Tình hình trật tự an toàn xã hội: Tiếp nhận 625 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự (giảm 89 vụ so với CK), trong đó tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng xảy ra 97 vụ (giảm 55 so với CK), làm rõ 92 vụ 165 đối tượng, đạt 94,84% (vượt chỉ tiêu Bộ Công an giao 4,84%).
Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 386 vụ, 901 đối tượng (giảm 26 vụ so với CK), điều tra làm rõ 329 vụ 997 đối tượng, đạt tỷ lệ 85,23%. Tội phạm về kinh tế phát hiện 46 vụ, 78 đối tượng (tăng 01 vụ so CK); khởi tố 39 vụ, 71 bị can. Tội phạm về tham nhũng phát hiện mới 01 vụ, 01 đối tượng (giảm 01 vụ so với CK), trong kỳ đã khởi tố 04 vụ, 06 đối tượng (kỳ trước chuyển sang 03 vụ, 04 bị can). Tội phạm về ma túy phát hiện 135 vụ (giảm 75 vụ so với CK), điều tra làm rõ 135 vụ, đạt tỷ lệ 100%. Tội phạm về môi trường phát hiện 04 vụ (tăng 01 vụ so với CK), điều tra làm rõ và khởi tố 04 vụ, 05 bị can, đạt tỷ lệ 100%. Tội phạm về giao thông xảy ra 51 vụ, làm rõ 51 vụ 50 đối tượng, đạt tỷ lệ 100%; khởi tố 51 vụ 50 bị can. Tội phạm khác xảy ra 02 vụ, điều tra làm rõ 02 vụ, 16 đối tượng, đạt tỷ lệ 100%; khởi tố 02 vụ, 16 bị can.
Tai nạn giao thông (từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/06/2022): Xảy ra 39 vụ, chết 17 người, bị thương 31 người. So với CK, giảm 05 vụ (-11,4%), 02 người chết (-10,5%), 04 người bị thương (-11,4%).
Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, giải quyết tốt công tác bảo hộ công dân và người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Tây Ninh. Ban hành Chương trình tăng cường hợp tác và vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2025. Tăng cường công tác quản lý an ninh trật tự và xử lý kịp thời các vụ việc phát sinh trên tuyến biên giới. Phối hợp với phía Campuchia tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thu hoạch hoa màu và thu hồi tài sản trên đất quản lý quá so với đường biên giới đã phân giới cắm mốc, để phục vụ công tác bàn giao cho nhau.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Mặt làm được
Trong 6 tháng qua mặc dù còn tiếp tục đối mặt với những khó khăn, thử thách, đặc biệt tình hình dịch COVID-19 tuy giảm mạnh nhưng vẫn diễn biến khó lường. Tuy nhiên, UBND tỉnh và các địa phương tiếp tục duy trì thực hiện tốt các biện pháp phòng chống dịch bệnh, để khôi phục, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân. Về cơ bản, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được kết quả khá toàn diện trên các lĩnh vực. Cụ thể:
- Thực hiện tốt các biện pháp kiềm chế dịch bệnh, đến nay cơ bản đẩy lùi được dịch bệnh để khôi phục kinh tế.
- Có nhiều giải pháp kiểm soát tốt lạm phát. Kinh tế tiếp tục phục hồi và tăng trưởng khá (5,2%). Giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu đều tăng so cùng kỳ. Ngành du lịch tăng trưởng ấn tượng (tăng số lượng khách tham quan và doanh thu du lịch). So CK, kim ngạch xuất khẩu tăng 17,7%, thu hút đầu tư trong nước tăng 15,7%, tổng vốn huy động các tổ chức tín dụng tăng 19,4%. Thu ngân sách có nhiều địa phương đạt trên 80%. Phân khai 100% vốn đầu dư XDCB từ nguồn vốn địa phương và vốn hỗ trợ Trung ương.
- Hoạt động văn hoá, xã hội có nhiều chuyển biến, duy trì hoạt động thích ứng với tình hình dịch bệnh và đạt kết quả tích cực, bảo đảm an sinh xã hội; tổ chức thành công Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Tây Ninh lần thứ IX, năm 2022.
- Quốc phòng - An ninh được bảo đảm, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định. Các loại tội phạm được kéo giảm. Tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí.
- Cải cách hành chính tiếp tục được quan tâm, chỉ số PAPI có tiến bộ, tăng 20 bậc (từ xếp 51/63 tỉnh, thành phố năm 2020 lên 31/61 tỉnh, thành phố năm 2021).
- Hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước trên từng lĩnh vực được nâng lên, nhất là tập trung chấn chỉnh các vi phạm về đất đai, đặc biệt là công tác tách thửa, phân lô, bán nền trái phép; công tác xử lý khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt.
2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh kết quả đạt được, một số lĩnh vực vẫn còn tồn tại những khó khăn, hạn chế. Trong đó:
Một số nội dung đề án, chương trình cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI triển khai còn chậm so với tiến độ đề ra. Kết quả thực hiện các chương trình đột phá còn hạn chế.
Khôi phục kinh tế sau đại dịch còn chậm, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các thành phần kinh tế còn khó khăn.
Một số dự án đầu tư công chậm triển khai so với kế hoạch.
Thu hút đầu tư nước ngoài giảm so với CK.
Tình hình giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công của tỉnh tuy cao hơn mức trung bình cả nước (đến 31/5/2022 đạt 20,45% kế hoạch - theo Báo cáo số 4257/BTC-ĐT ngày 12/5/2022 của Bộ Tài chính) nhưng vẫn chưa đảm bảo theo mục tiêu đề ra (giải ngân đến 30/6/2022 đạt 50% kế hoạch của HĐND tỉnh giao).
Thu ngân sách tuy đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước, song vẫn còn chậm so với kỳ vọng.
Một số chính sách về đầu tư; quy hoạch sử dụng đất đai, xây dựng chưa kịp thời; công tác đền bù giải phóng mặt bằng một số dự án trọng điểm xử lý còn chậm ảnh hưởng đến thu hút đầu tư.
Cải cách hành chính cải thiện chưa nhiều, chưa bền vững. Chỉ số PCI năm 2021 giảm 13 bậc so với năm 2020 (năm 2020: hạng 24/63 tỉnh, thành phố; năm 2021: hạng 37/63 tỉnh, thành phố). Chỉ số PAR INDEX năm 2021 giảm 11 bậc so năm 2020 (năm 2020: hạng 27/63 tỉnh, thành phố; năm 2021: hạng 38/63 tỉnh, thành phố).
Kỷ luật, kỷ cương hành chính có lúc, có nơi chưa được thực hiện nghiêm túc, nhất là việc thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh và các nội dung trình Ban cán sự đảng UBND tỉnh, Thường trực Tỉnh ủy còn chậm, chất lượng chưa đạt yêu cầu.
3. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế
3.1. Khách quan
- Đại dịch kéo dài, tác động lớn đến sự phục hồi kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân.
Lạm phát chưa được kiềm chế, nhất là giá xăng dầu, vật tư đầu vào của sản xuất tăng, ảnh hưởng đến sản xuất, đầu tư xây dựng cơ bản.
- Đầu tư nước ngoài đang trong giai đoạn phục hồi, tái cơ cấu đầu tư, chưa mở rộng đầu tư.
- Tình hình xung đột Nga - Ukraine tác động lớn đến hoạt động kinh tế toàn cầu, do đó việc mở rộng thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, nhất là thị trường Nga, Đông Âu.
3.2. Chủ quan
- Tỉnh đang trong giai đoạn tạo lập cơ sở pháp lý (xây dựng quy hoạch của tỉnh) nên công tác xúc tiến và thu hút đầu tư chưa được đẩy mạnh.
Một số dự án đầu tư công triển khai chậm so kế hoạch. Công tác giải ngân xây dựng cơ bản còn thấp. Công tác giải phóng mặt bằng ở một số địa phương chưa đảm bảo tiến độ.
- Điểm nghẽn trong lĩnh vực đất đai, đầu tư xây dựng, quy hoạch đã được nhận diện nhưng chưa được tháo gỡ kịp thời.
- Công tác quản lý nhà nước về đất đai, nhất là ở địa phương còn nhiều bất cập, yếu kém, lỏng lẻo, nhất là trong giải quyết các thủ tục pháp luật về tách thửa, về chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất lúa, công tác chuyển mục đích sử dụng đất; chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm về đất đai.
- Tình trạng đầu cơ đất, lợi dụng việc tách thửa, chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất, phân lô, bán nền trái pháp luật chưa được ngăn chặn, xử lý triệt để, tạo côn sốt đất ảo, gây khó khăn trong công tác quản lý nhà nước.
- Cơ chế, chính sách tháo gỡ vướng mắc công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án đầu tư.
- Một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý chưa thể hiện quyết tâm, trách nhiệm cao vì sự phát triển chung, còn sợ rủi ro, sợ trách nhiệm, làm chậm trễ công việc, làm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của tỉnh.