Giữ vững an ninh lương thực của quốc gia trong mọi tình huống

Thứ tư - 18/03/2020 16:00 282 0
Sáng ngày 18/3, tại Hà Nội, diễn ra hội nghị trực tuyến tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Kết luận số 53-KL/TW ngày 05/8/2009 của Bộ Chính trị về Đề án “An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020”.

Tham dự, chủ trì tại đầu cầu trụ sở Chính phủ, có đồng chí Nguyễn Xuân Phúc - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Nguyễn Văn Bình - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; đồng chí Trịnh Đình Dũng - Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ.

tttongket10nam.jpg

Quang cảnh hội nghị tại điểm cầu tỉnh Tây Ninh

Tại điểm cầu tỉnh Tây Ninh, tham dự có đồng chí Phạm Viết Thanh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Phạm Văn Tân - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; đồng chí Nguyễn Thanh Phong - Phó Chủ tịch HĐND tỉnh cùng lãnh đạo các sở, ngành liên quan, lãnh đạo UBND các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn.

Theo đánh giá tại hội nghị, là quốc gia có dân số gần 100 triệu dân, đứng thứ 5 trên thế giới và thứ 3 ở Đông Nam á, Việt Nam xác định vấn đề an ninh lương thực mang tính thiết thực và cấp bách, có ý nghĩa quan trọng.

Trong 10 năm thực hiện Đề án, nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. So với mục tiêu đến năm 2020 tại Kết luận 53-KL/TW và Nghị quyết số 63/NQ-CP, dự kiến có 14 chỉ tiêu đạt và vượt. Giai đoạn 2009 - 2019, sản lượng lúa tăng từ 39,17 triệu tấn lên 43,4 triệu tấn. Bình quân lương thực đầu người tăng từ 497 kg/năm lên trên 525 kg/năm, đưa Việt Nam vào nhóm 6 nước hàng đầu về chỉ số này và vai trò của Việt Nam trong hỗ trợ an ninh lương thực cho các quốc gia khác ngày càng tăng.

tttongket10nam1.jpg

Cánh đồng lúa ở huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh

Việt Nam không chỉ tự đảm bảo được an ninh lương thực, mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho nhiều quốc gia khác với việc mỗi năm xuất khẩu 5-7 triệu tấn gạo.

Giai đoạn 2009 - 2019, GDP toàn ngành nông nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá đạt 2,61%/năm; sản xuất hàng hóa chuyển dịch theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; vận hành theo cơ chế thị trường, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia.

Nhiều mặt hàng có năng suất cao, chi phí sản xuất thấp, lợi thế cạnh tranh cao, đang từng bước chiếm lĩnh thị trường thế giới. Năng suất lúa gạo cao nhất trong khu vực Đông Nam á, đạt 5,6 tấn/ha, gần gấp đôi so với Thái Lan, và gấp 1,5 lần so với Ấn Độ. Năng suất tôm sú đạt 0,45 tấn/ha, tôm thẻ chân trắng đạt 3,91 tấn/ha, cao hơn so với Ấn Độ và Thái Lan. Năm 2018 được xem là cột mốc quan trọng với mức xuất khẩu 6,16 triệu tấn, giá trị 3,06 tỷ USD. Gạo Việt Nam đã xuất khẩu đến 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, cơ cấu thị trường đa dạng, chủng loại chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm có chất lượng, giá trị gia tăng cao.

Nổi bật là một số kết quả về sản xuất lương thực, thực phẩm. Về trồng trọt, giá trị sản xuất tăng 2,9%/năm; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 8,99%/năm, đã có 7 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 01 tỷ USD/năm. Trong các sản phẩm, cây ăn quả có diện tích tăng nhanh nhất gần 150.000 ha, sản lượng lúa tăng từ 38,7 triệu tấn lên 43,4 triệu tấn. Giá trị sản xuất chăn nuôi tăng 5,2%/năm. Giá trị sản xuất thủy sản tăng 3,91%/năm. Sản lượng thuỷ sản tăng từ 4,85 triệu tấn lên 8,2 triệu tấn năm 2019.

Cơ sở hạ tầng cơ bản nhất là thủy lợi đã có bước phát triển đáng kể, được cải tạo, nâng cấp, đảm bảo tưới cho 7,2 triệu ha trồng lúa (chiếm 95% diện tích lúa) và tiêu cho 1,72 triệu ha đất nông nghiệp; hệ thống kinh doanh dịch vụ logistics đang được hình thành và phát triển; đã góp phần đầu tư cải tạo, nâng cấp, tăng nhanh hệ thống các cơ sở hạ tầng thương mại lương thực, thực phẩm.

Song song đó, nước ta còn đẩy mạnh chế biến, ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ, giảm mức tổn thất sau thu hoạch lúa từ 13% xuống còn 10%; chăn nuôi quy mô trang trại, công nghiệp đối với lợn chiếm trên 35%, với gà trên 40%, với trâu bò trên 45%...Xây dựng vùng sản xuất an toàn dịch bệnh, ứng dụng công nghệ cao, áp dụng quy trình thực hành sản xuất tốt. Diện tích đã dồn điền đổi thửa là 693,7 nghìn ha, chiếm 6% đất sản xuất nông nghiệp

Hội nghị cũng nhận thấy những hạn chế, quy hoạch sử dụng đất tại các địa phương không ổn định, nhiều nơi chuyển đổi đất lúa nhưng ưu tiên cho mục đích phi nông nghiệp. Việc chậm thực hiện tích tụ, tập trung ruộng đất đang đang là "nút thắt" lớn cho sản xuất lương thực, thực phẩm hàng hóa, quy mô lớn. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất lương thực, thực phẩm còn chậm, chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa lớn, tập trung, quy mô lớn...

Qua các ý kiến phân tích của các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, các hiệp hội, doanh nghiệp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh một số thành công lớn của Đề án, không chỉ đã căn bản đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước mà còn dư để xuất khẩu. Trong đó, đã tập trung tái cơ cấu nông nghiệp, có giải pháp khoa học công nghệ, phát triển thiết chế khoa học công nghệ ứng phó biến đổi khí hậu, thiên tai. Trong hoàn cảnh biến động, thiên tai, dịch bệnh, vẫn đảm bảo cho cân đối sản phẩm nông nghiệp đi đôi với tăng cường năng lực sản xuất, đã chú ý thích đáng đến phát triển bền vững, an sinh xã hội, với tinh thần quan tâm đến toàn xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau, không để ai bị đứt bữa.

tttongket10nam2.jpg.png 

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại hội nghị

Về định hướng thời gian tới, Thủ tướng cho rằng, trước tình trạng an ninh lương thực càng trở nên bức thiết hơn khi dân số có xu hướng tăng, chúng ta cần giữ vững quan điểm phải bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống.

Theo Thủ tướng, cần phải chốt cứng diện tích trồng lúa và sản lượng lương thực hằng năm và tăng cường khả năng dự trữ, không chạy theo thị trường và nêu cao tinh thần tự cường, chủ động đối với an ninh lương thực. Gắn sự phát triển nông nghiệp với tái cơ cấu nền kinh tế. Chuyển nhận thức phát triển nông nghiệp từ vai trò an sinh, đủ ăn, sang một vai trò mới có tính lợi thế đặc thù, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế, hội nhập.

Thủ tướng cũng nhấn mạnh một số mục tiêu quan trọng để phấn đấu. Đó là đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng, cơ cấu thực phẩm hợp lý, khoa học trong từng giai đoạn, kể cả lượng và chất, ít nhất cho quy mô 104 triệu người vào năm 2030, để chống tình trạng thấp, bé, còi của người Việt Nam.

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 9-10%/năm, phấn đấu đến năm 2030, nông nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu 100 tỷ USD. Rà soát tài nguyên đất đai, phát huy lợi thế của từng vùng, đi liền với đó là đảm bảo an ninh nguồn nước.

Bên cạnh đó, Thủ tướng còn nêu một số giải pháp chủ yếu để đạt được những mục tiêu trên, trong đó nhấn mạnh đến việc giữ trên 3,5 triệu ha đất trồng lúa để cho sản lượng ít nhất 35-38 triệu tấn lúa (tương ứng 22 triệu tấn gạo) nhằm đảm bảo vai trò của gạo trong cơ cấu thực phẩm; tăng nhanh sản lượng sữa, trứng, thịt đỏ, thịt gà, thủy sản, rau quả có lợi cho sức khỏe và phù hợp với cơ cấu dinh dưỡng.

Thủ tướng yêu cầu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị quyết mới về an ninh lương thực (thay thế Nghị quyết số 63NQ-CP). Thủ tướng tin tưởng, các ngành, các cấp sẽ vừa chống dịch Covid-19 vừa lo tốt vụ lúa hè thu, quyết tâm giữ vững an ninh lương thực của Việt Nam trong mọi tình huống.

QN

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây